Từ đời vào văn

25/6
9:48 AM 2018

NHƯ QUE DIÊM TRAO LỬA

Phạm Thùy Vinh-Thật khó để nói về ông, trước hàng chục những bài viết của bạn bè, đồng nghiệp, học trò… thể hiện những am hiểu tường tận về con người, tài nămg và tâm tư của nhà giáo, nhà toán học, nhà thơ Lê Quốc Hán. Tôi như lạc vào mê cung ngồn ngộn chữ nghĩa, thấy những gì mình biết về ông thật vô chừng ít ỏi.

                                         Nhà thơ Lê Quốc Hán

Vậy nên, tôi sẽ kể về ông, bằng góc nhìn giản dị tôi gặp, tôi thấy...

Lê Quốc Hán đón tôi trước cổng nhà. Ông nói, thông cảm cho ông, vì ông không thể ra góc quán tôi hẹn bởi ông không biết đi xe máy. Thấy tôi ngạc nhiên, ông bảo: “Mà tôi đâu cần đi xa chứ, cả cuộc đời làm việc gần như đã gắn bó với ngôi trường này (Trường Đại Học Vinh). Từ nhà thong thả đi bộ lên là đến nơi. Khi có việc đi đâu thì nhờ người chở, đi xe ôm hay tắc xi gì đó… Người ta đã từng nghĩ, tôi tối ngày chỉ chúi mũi mỗi chuyên môn đó sao. Mà ngay cả sau đó, khi người ta thấy hóa ra tôi cũng nhiều nỗi đam mê thì cũng chả có đam mê nào lôi tôi ra khỏi nhà, khỏi trường được…”. Nói rồi, ông cười hóm hỉnh, rót nước mời khách, rồi ngâm ngợi hai câu thơ trong bài Dã tràng của mình: Đắm mình trong cõi đam mê/ mặc cho thiên hạ cười chê tôi nghèo.

Những lời đùa vui của ông lại ẩn chứa nhiều sự thật. Lê Quốc Hán sinh ra, lớn lên ở Hà Tĩnh, từng được xem là thần đồng toán học, cơ hội đi xa và bay cao không ít, nhưng gần như cuộc đời làm việc của ông là trường Đại Học Vinh. Ngôi nhà nhỏ ngay sau phía trường ông dạy không chỉ là một mái ấm để ông sinh sống, mà còn là nơi ông ngồi soạn giảng, để nghiên cứu Toán học, viết bài cho các báo và tạp chí văn nghệ, cho tạp chí Toán học, và cũng là nơi để ông làm thơ nữa. Dường như tất cả các tác phẩm của con người tràn đầy năng lượng ấy đều đã ra đời, lớn lên giữa bốn bức tường giản dị, trong tiếng bước đi nhẹ nhàng của người vợ hiền hậu, tiếng nước reo sôi buổi sáng, tiếng khóa cổng lách cách khi bà vợ đi chợ và mùi thơm đang tỏa ra từ gian bếp mỗi trưa, chiều…

Ở Trường Đại Học Vinh, các thế hệ sinh viên đều truyền tụng về một ông thầy khả kính, ân cần, giỏi giang, là Nhà giáo Ưu tú. Trong giới giới toán học, ông là người có cống hiến, được phong hàm Phó giáo sư. Và trong giới văn nghệ sĩ Nghệ An, ông được biết đến như một người có nhiều tâm huyết với văn chương, có nhiều tác phẩm hay, từng là Trưởng ban Thơ của Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An. Con người nhiều "vai" cùng nhiều tài như ông, chọn một cuộc sống bình lặng, hẳn có lý do? Tôi hỏi ông vậy, và nhận được thoáng ngạc nhiên nơi ông: - “Không, tôi thấy mình hạnh phúc, may mắn. Tôi lựa chọn cuộc sống như mình đang có, thủy chung với tất cả đam mê của mình, chưa khi nào rời bỏ, chưa khi nào chán nản hay hối tiếc. Thực ra, cuộc sống, còn mưu cầu gì hơn thế?”…

Lê Quốc Hán đã nói điều ấy với tất cả vẻ chân thành của một người đã đi đến chặng cuối cuộc đời với bao trải nghiệm. Tôi biết, ông đã thanh thản để kiêu hãnh với những gì mình có, với sự giản dị mà mình chọn. Bởi ông đã từng trải qua không ít đắng cay, phải lựa chọn không ít ngả rẽ.

Sinh năm 1949 tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh, từ khi 15 tuổi, Lê Quốc Hán đã thi vào lớp Chuyên toán Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội vượt điểm tối đa (20,5/20), nhưng do quan điểm hẹp hòi của một số cán bộ chính quyền địa phương thời ấy, Lê Quốc Hán không được đi học. Ngỡ ngàng, thất vọng, cậu bé trường làng với những ước mơ về con số đã nhận được lời khuyên từ thầy giáo dạy văn của mình: "nên học văn cho khuây khỏa". Đó chính là lời khuyên quý giá vô cùng đối với Lê Quốc Hán. Ông đã tìm thấy ở Văn chương những say mê mới, cân bằng lại chính mình, tự xoa đi những tổn thương của tâm hồn non nớt.

Bạn bè cùng trang lứa còn nhớ tới Lê Quốc Hán không chỉ như một thần đồng toán học, mà còn là người ba lần đạt giải nhất trong kỳ thi học sinh giỏi tỉnh văn Hà Tĩnh. Nhưng rồi học hết phổ thông, ông chấp nhận vào học khóa Sư phạm cấp tốc 10+1 để về làm một thầy giáo làng. Sáu năm liền vừa dạy học vừa cày ruộng, nhưng với ông thế cũng chẳng sao. Ông yêu nghề, yêu học trò mình, nỗ lực hết lòng vì chúng, liên tục là giáo viên dạy giỏi của tỉnh. Ông nói, mình làm gì cũng  đam mê. Và ông lý giải giản đơn việc mình được học trò yêu bởi vì "mình cũng yêu chúng".

Năm 1976, Giáo sư Lê Văn Thiêm, Hội trưởng Hội Toán học, Viện trưởng Viện Toán học lúc đó, đề nghị đặc cách cho ông được đặc cách vào học ngành Toán, Trường Đại học Sư phạm Vinh (không qua kỳ thi tuyển chung). Trong thời gian học đại học và cao học, ông đều là sinh viên, học viên xuất sắc. Học xong, ông được giữ lại Trường làm giảng viên. Năm 1991, nhà trường mở khóa Nghiên cứu sinh đầu tiên, ông là một trong những người thi đậu, và ông trở lại những đam mê toán học của mình. Ông chọn một đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành Đại số hiện đại, là một lĩnh vực rất trừu tượng mà không phải người làm toán nào cũng muốn tiếp cận. Đầu năm 1996, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Bao nhiêu những mời gọi mở ra trước mắt ông, nhưng rồi, ông vẫn chọn góc nhỏ lặng lẽ của mình để vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu. Ông tâm sự: "Điều tôi nghĩ là sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ của mình, ấy là lần đầu tiên thực sự tự tin và nghĩ rằng mọi cố gắng trong cuộc sống dù nhanh hay muộn cũng được đền bù".

"Con đường toán" của một "thần đồng toán" có không ít thác ghềnh, trắc trở như vậy, nhưng khi đi trên "con đường thơ" ông lại cho rằng mình đã gặp những thuận lợi đến không ngờ. Mặc dù đã võ vẽ làm thơ từ những năm học cấp 3 (ông nói rằng có lẽ mình yêu thơ có lẽ do cha mình, khi mình còn nhỏ ông thường đọc cho mình nghe những bài thơ lãng mạn, đặc biệt là thơ lãng mãn Pháp), nhưng ông đã từng quên bẵng nó 20 năm (1970-1990). Đến năm 1991, bắt đầu làm nghiên cứu sinh, ông lại tìm đến thơ như tìm đến sự cân bằng cho tâm hồn mình. Ngay những năm đầu tiên trở lại với thi ca, Lê Quốc Hán đã được chú ý, thơ ông được giới thiệu trên những tờ báo và tạp chí văn nghệ có uy tín, xuất hiện liên tục trong các tuyển thơ lớn. Năm 1996, ông trình làng tập thơ đầu tay Lời khấn nguyện và được kết nạp vào Hội Văn nghệ Nghệ An. Đến năm 2002, ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Cho đến nay, ông đã có 4 tập thơ và 2 tập bình thơ được xuất bản và được giới phê bình đánh giá cao. Ông giành được nhiều giải thưởng về thơ của Tạp chí Sông Lam, báo Tiền phong, Tạp chí Tài hoa trẻ, hai giải A về VHNT Hồ Xuân Hương… Nhiều đồng nghiệp, bạn bè quen biết ông tỏ ra khá bất ngờ khi thấy "ông điềm tĩnh suốt ngày như chỉ biết ba bài toán, không mấy chú ý đến những việc khác" bỗng say sưa làm thơ và tham gia hội thơ. Người ta vỡ lẽ, hóa ra, ẩn sau cái vẻ lặng lẽ, có gì như thuần túy và cam chịu ấy lại là những bứt phá, những khát khao, là trăn trở, ngẫm ngợi không nguôi về nhân thế. Mọi va đập, cảm nhận về cuộc sống, con người đã được ông giãi bày trong thơ: Trẻ - ngỡ mình nặng nhất/ già - biết mình nhẹ tênh/ Thời gian như rừu sắc/ đẽo bạc cả đầu xanh. Trong thơ ông, chan chứa góc quê, tình quê, những ngẫm ngợi về nhân tình thế thái, những triết lý đúc kết sự đời với điệp trùng thế giới hình tượng. Những "sương, gió, bão, giông", những "sông, thuyền, bến, bờ", những "thiên đường, địa ngục, niết bàn"… đôi khi mượn cả tâm linh chỉ để bộc lộ những vô vàn yêu thương cuộc đời, trân quý hiện tại và từng phút giây mình có, dù cuộc đời, ông biết, không ít nỗi trái ngang: Lưỡi phun nọc rắn đùa chơi/ bẻ hoa rồi dạy mọi người yêu hoa. Ông chia sẻ: tất cả những buồn đau, gian nan quá khứ, ông chưa bao giờ muốn nhắc, muốn nhớ lại. Ông luôn biết cách quên đi quá khứ, để yêu cuộc đời "đầy may mắn" của mình, để thấy sự cố gắng luôn được đền bù, như cách ông nói.

Không cầu kỳ, hoa mỹ, không náo nhiệt, ồn ào, những triết lý, những xúc cảm trong  thơ ông luôn đưa người ta đến với ánh sáng trong lành, hướng thiện và giàu suy tưởng. Ông cũng rất cẩn trọng để tìm tòi, tự làm mới mình. Có người gọi ông là "nhà toán học bắc chiếc cầu thi ca". Đúng vậy, ông từng nói, toán học là sản phẩm của trí tuệ, thi ca là sản phẩm của tâm hồn, "một người dù thông thái đến đâu, nếu không có một trái tim biết xúc cảm mãnh liệt cũng không thể trở thành nhà toán học đích thực, và một người dù có tâm hồn nhạy cảm và đa tình đến đâu nếu không có trí tuệ dẫn đường cũng khó trở thành nhà thơ lớn".

Dung hòa, cân bằng, đó là điều ông thấy mình có được khi ông đứng giữa cuộc đời bằng "hai chân": Toán học và Thi ca. Ngoài ra, ông còn là một "nhà phê bình văn học tay ngang". Và ở địa hạt nào, ông cũng bộc lộ nét tài hoa. Ông tâm sự rằng tình yêu, lòng biết ơn với mái trường đã cho ông thỏa ước nguyện, đã bao dung gần suốt cuộc đời giống như niềm biết ơn nơi chôn rau cắt rốn của ông. Và ông tự thấy mình hợp với nơi này, với ngôi nhà ngõ nhỏ rộn bước chân sinh viên những giờ đến lớp hay tới trường. Hợp với cái không gian tuy nhỏ hẹp nhưng khoáng đạt, không gấp gáp bon chen. "Ở đây tôi thấy mình được là chính mình, nó vừa vặn với tôi" - Ông nói vậy với một niềm hạnh phúc: "Như một người sống thủy chung sẽ gặt hái được thành quả".

Hết mình sống, sống đúng mình, không gắng gượng theo ai, theo bất cứ điều gì ngoài trí tuệ, con tim mách bảo, ấy là tâm niệm và cũng là điều nhà giáo - nhà thơ thực hiện. Dẫu cuộc đời ngắn lắm, chỉ: Như que diêm trao lửa/ thoắt biến vào hư vô.

Nguồn Văn nghệ số 24/2018

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *