Tác phẩm và dư luận

23/7
8:37 AM 2018

NGUYỄN BÍNH – NHÀ THƠ CỦA NHIỀU THỜI

PGS-TS Bùi Mạnh Nhị-VanVN.net – Sáng 21-7-2018 tại TP.Hồ Chí Minh, Viện Văn học Việt Nam phối hợp cùng trường Đại học Văn Lang, đã tổ chức “Hội thảo khoa học kỉ niệm 100 năm sinh nhà thơ Nguyễn Bính (1918-2018). Đây là hội thảo thứ ba, cùng chủ đề nhìn lại sự nghiệp văn học của nhà thơ lớn Nguyễn Bính, sau hội thảo do gia đình nhà thơ và hội thảo do Hội Nhà văn VN phối hợp cùng tỉnh Nam Định tổ chức.

Hội thảo lần này nhận được 70 tham luận từ các nhà nghiên cứu, nhà giáo và 25 cơ quan nghiên cứu giảng dạy trên cả nước. 47 tham luận đã được chọn in trong kỉ yếu “Trăm năm Nguyễn Bính, truyền thống và hiện đại” dày 551 trang.

Qua các tham luận và tranh luân từ hội thảo, các vấn đề phong cách, giọng điệu, ngôn  ngữ, thi liệu, thi cảm…được lí giải sâu sắc hơn từ việc áp dụng các nguyên lí của kí hiệu học, phân tâm học, liên văn bản, phê bình sinh thái…  

 Với giải thưởng Hồ Chí Minh Nhà nước đã truy tặng, với 3 hội thảo khoa học liên tục như vừa nói, đóng góp to lớn của Nguyễn Bính cho văn học hiện đại Việt Nam đã được khẳng định! Nhưng với văn học thế giới, thơ Nguyễn Bính có đóng góp gì không? Trích dẫn tham luận dưới đây của  PGS.TSKH Bùi Mạnh Nhị, nguyên Hiệu trưởng trường ĐHSP TP.HCM thể hiện mong muốn trả lời câu hỏi này.

 “Cứ đi sâu vào hồn một người, ta sẽ gặp hồn nòi giống. Và đi sâu vào hồn một nòi giống, ta sẽ gặp hồn chung của loài người” (Hoài Thanh, Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam). Đó cách Nguyễn Bính đến với hiện đại. Cũng từ đó, một trong những nguyên nhân chính để Nguyễn Bính trở thành nhà thơ của nhiều thời là thơ ông thể hiện rất tự nhiên, đặc sắc nhiều cổ mẫu kết tinh từ những mô thức tâm lý, “những kinh nghiệm được lặp đi lặp lại nhiều lần của loài người”, “khơi dậy trong ta một giọng nói to hơn giọng nói của chính ta”. Từ điển văn học giải thích: “ Cổ mẫu là khái niệm dùng để chỉ những mẫu của các biểu tượng, các cấu trúc tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của con người, chứa đựng trong vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại” (Từ điển văn học ( Bộ mới), Nxb Thế giới,H., năm 2004, tr. 972 Đỗ Đức Hiểu). Nói cách khác, cổ mẫu là những biểu tượng bền vững, bắt nguồn từ vô thức tập thể, chất chứa chiều sâu tâm lý, cảm xúc được chiêm nghiệm qua các thời đại khác nhau của cộng đồng. “Kho báu của nhân loại nằm trong tính đa dạng sáng tạo, nhưng nguồn gốc của tính sáng tạo lại nằm trong  tính thống nhất sinh thành của nhân loại”( Edgar Morin: Phương pháp, Nhân loại về nhân loại, Bản sắc nhân loại, Nxb Tri thức, tr. 103). Người đọc văn học theo lý thuyết cổ mẫu thường dõi theo những biểu tượng, những motif lặp đi lặp lại nhiều lần, có ý nghĩa phổ quát trong các tác phẩm để thấy những ý nghĩa điển hình của nó trong văn hóa, văn chương nhân loại và dân tộc, tính chất thời đại mà nó xuất hiện cũng như những ý nghĩa chuyển dịch, xung năng, tương tác của nó trong các tác phẩm, tác giả cụ thể.

Trong khuôn khổ của bài báo, chúng tôi  không thể đề cập nhiều về lý thuyết cổ mẫu ( có người gọi cổ mẫu là nguyên tượng, siêu mẫu). Xin chỉ nói về một vài cổ mẫu cụ thể.

Trước hết là cổ mẫu Hành trình, cụ thể thêm: cổ mẫu Đi và Lỡ bước.

Hành trình, theo cách nhìn của lý thuyết cổ mẫu, “là tìm kiếm, tìm chân lý, bất tử và phát hiện một trung tâm tinh thần”. Hành trình “trở thành dấu hiệu và biểu tượng của sự luôn luôn chối từ bản thân…, và cần kết luận rằng cuộc du hành duy nhất có giá trị là cuộc du hành của con người bên trong bản thân mình”( Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng, tr. 387). Nhân loại đã có bao nhiêu cuộc hành trình, đớn đau và vĩ đại: hành trình của Chúa, hành trình về đất Phật, hành trình về miền đất hứa, hành trình dời Ai Cập, hành trình của Don Quixote,vv…Nguyễn Bính đã đi đâu, về đâu? Trở lại với không khí xã hội thời Thơ Mới. Trong “cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”, hành trình của Nguyễn Bính là hành trình của thi sỹ “giang hồ”, cô đơn, lỡ bước, khi dấu ấn cuối cùng “giấc mơ quan trạng”, “Ngựa bạch buông chùng áo Trạng Nguyên” ( Xóm Ngự Viên)- lý tưởng của nho sỹ bình dân một thời, đã vĩnh viễn khép lại: “Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng”, “Lỡ duyên búi tóc củ hành, Trường thi Nam Định biến thành trường bay”(Con nhà nho cũ):

Anh đi đấy, anh về đâu

Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm (Cánh buồm).

            Đi mà không biết đi đâu! Về không biết về đâu. Nhịp thơ cũng theo cánh buồm, nhỏ dần, rồi mất hút. Như thân phận trên dòng sông cuộc đời mênh mang, hoang vắng: “Giang hồ ai biết đi đâu mà tìm”(Giang hồ). Dễ hiểu vì sao thơ Nguyễn Bính hay nhắc nhiều đến con đò, bến đò, “chuyến đò thân thế”, và sân ga, con tầu: “Đò sang còn một chuyến này, Khách sang còn một người đây hỡi đò!” (Người đi), “Đem thân đi với giang hồ, Sân ga phẳng lặng, bến đò lênh đênh” (Quê tôi). Ấy là con đò quê, ga là ga xép. Cũng có khi là con sông trong tâm tưởng, chảy rất mạnh, rất mênh mang trong văn hóa phương Đông: sông Tương, sông Dịch.Thời gian chủ yếu là buổi chiều và trong đêm: “Càng chiều anh thấy con đường càng xa” (Định mệnh), “ Tàu biết bây giờ chạy đến đâu, Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu” (Chuyến tàu đêm). Con tàu, sân ga trong thơ Nguyễn Bính thật buồn:

- Tàu chạy hình như để chở buồn,

Chở người đi nhớ, kẻ về thương (Chuyến tầu đêm).

           - Con tàu ngược, con tàu xuôi

Con tàu chẳng đợi chờ tôi bao giờ (Xa xôi).

-Những từ ga lớn, từ ga nhỏ

Đời chẳng làm cho lấy một ga (Chuyến tầu đêm).

- Ở đây…tôi ở riêng đây,

Hoa tim rớm máu rụng đầy sân ga (Rừng mai xa cách).

- Tàu đi để lại ga đơn chiếc

Đường sắt nằm chờ những chuyến qua

Có người lưu lạc bên đường sắt

Mỗi chuyến tàu đi lại nhớ nhà (Nhớ).

            Nguyễn Bính cũng là một bóng người giữa những bóng người đổ bóng xuống sân ga: “bóng lẻ”, “Hai bóng chung lưng thành một bóng”, “bóng liêu xiêu”, “bóng nhòa trong bóng tối”, “ Một mình làm cả cuộc phân ly” (Những bóng người trên sân ga). Cái “hiện đại” tường vàng ngói đỏ bề ngoài của ga xép ai ngờ không dấu nổi linh hồn của cuộc đời, thân phận, chia lìa và nước mắt:

Tường vàng, mái đỏ màu son

Nhà ga lại chứa linh hồn nhà ga.

            Nguyễn Bính chính là một hành trình cô đơn như vậy, một nhà ga cô đơn như vậy khi đi tìm lý tưởng cuộc đời mình. Trong hai câu thơ ấy, cái không nói ra nhiều hơn và được cảm nhận mãnh liệt hơn rất nhiều cái đã nói ra.

Chẳng ngẫu nhiên, “Lỡ bước sang ngang”, tên một bài thơ lại được đặt tên cho cả một tập thơ! Không chỉ người con gái “lỡ bước sang ngang”, mà chính Nguyễn Bính và cả thế hệ những người như ông “lỡ bước sang ngang”trong hành trình ấy, trên chuyến đò và sân sân ga ấy:

Năm ấy sang sông lỡ chuyến đò

Đò đầy sóng lớn nước sông to

Mười hai bến nước xa lăng lắc

Lầm tự ngày xưa, lỡ đến giờ.

            Trong hành trình “dan díu nợ giang hồ”, “Tự mình đắp núi khơi sông, Tự mình đày ải tấm lòng mình đi” (Đêm nay khơi tỏ tim đèn), “tâm hồn tôi”, cái tôi đang tự đi tìm mình của Nguyễn Bính đến với rất nhiều nơi. Địa danh thực là Lạng Sơn, Vinh, Huế, Sài Gòn, ga Kép,vv… Địa danh thực mà ảo, ảo mà thực hoặc hoàn toàn ảo thì nhiều hơn rất nhiều: “Kinh thành”, “Xóm Ngự Viên” “ Mười hai bến nước”, “Mây Tần”, “Một nghìn cửa sổ”, “Lầu hoa”, “ Rừng Mơ”, “Rừng mai”, “Bến mơ”, “Vườn Tiên”, “Suối Thiên Thai”,v.v… Ông phân thân thành cặp đối lập: Tráng sĩ - Thi sĩ. Con người “Tráng sĩ” của Ông, có lẽ, là “cái rớt”cuối cùng của kiểu nhà nho tài tử trong văn học Việt Nam trung đại. Con người ấy vẫn có cái chất hào hoa, kiêu bạc nhưng xuất hiện đã rất lu mờ và đầy cô đơn – cái cô đơn của tráng sĩ không còn hợp thời, không bao giờ có “lúc khải hoàn thân gió bụi” (Lá thư về Bắc):

- Tôi say mơ thấy vì Tiên Trích,

Vua gọi mà không chạy xuống thuyền (Cho tôi ly nữa).

- Sông lạnh thấy đâu người gọi gió,

Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm.

- Thời chưa gặp đó nằm suông mãi,

Suông cả ân tình rượu cũng suông (Xuân vẫn tha hương).

- Hỡi người đi gió cùng mưa

Có xây dựng nổi cơ đồ gì không (Nam Kỳ cùng gió cùng mưa).

            - Đem theo cát bụi đường xa lại

            Tráng sĩ dừng chân khẽ thở dài (Quán lạnh).

Con người “Thi sĩ” mới thực sự thể hiện “cái tôi” của Nguyễn Bính. Cũng như nhiều nhà thơ khác thời Thơ Mới, Nguyễn Bính đến với Tình yêu – tình cảm phổ quát của con người. Nhưng khác với nhiều nhà thơ khác, tiếng vọng của “vô thức tập thể”, của cổ mẫu luôn tự nhiên dệt thành những vần thơ. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đã cụ thể hóa được cuộc sống vô thức của toàn nhân loại trong nhiều bài thơ tình yêu. Ông lý tưởng hóa tình yêu trong những bồn chồn, nhớ thương, day dứt. Và, như Platon, nhà hiền triết vĩ đại của nhân loại, trong tác phẩm “Bữa tiệc hay Hội thảo về Tình yêu”, đã nói:  “khi tình yêu được chuyển dịch từ một lý tưởng sang một con người bằng xương bằng thịt”( Charles Van Doren: Thú đọc sách ( Phan Quang Định dịch), Nxb Trẻ, 2015, tr. 73), từ ý niệm vĩnh cửu đến con người cụ thể, thì thực tế điều này lại đưa tới sự “bất cân đối với những điều thiêng liêng”( Charles Van Doren: Thú đọc sách ( Phan Quang Định dịch), Nxb Trẻ, 2015, tr. 73). Vì thế, thơ tình của Nguyễn Bình cũng là hành trình Đi – Lỡ bước.

Nguyễn Bính có những vần thơ tương tư nổi tiếng:

- Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhớ mười mong một người (Tương tư).

            - Hồn anh như hoa cỏ may

            Một ngày cả gió bám đầy áo em (Hoa cỏ may).

            - Em nghe họ nói mong manh

            Hình như họ biết chúng mình…với nhau (Chờ nhau).

- Giếng thơi mưa ngập nước tràn

Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều (Qua nhà).

- Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi

Chẳng trả lời nhau lấy một lời!

Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng

Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi…(Cô hái mơ).

            - Hai tay người đẹp trông mềm quá

            Tôi có ngờ đâu khóa được người (Chú rể là anh).

            Ông “vương quốc hóa”, “địa đàng hóa” tình yêu: “Ví chăng có một nước Tình Ái, Em làm hoàng hậu, anh làm vua” (Ái khanh hành), “Với người trong giấc mơ tiên, Của chàng thi sĩ quê trên mây hồng” (Mười hai bến nước), “Hồ tiên đâu phải hồ trần, Em không thả cá mà thuần thả thơ” (Xây hồ bán nguyệt). Nỗi nhớ, sự chờ mong tình yêu trong thơ Ông được dệt bằng bao cảm xúc, bao biểu tượng, đi thẳng vào trái tim người:

- Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ

Em thử quay xem được mấy vòng?

Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ

Em thử lào xem được mấy thưng? (Nhớ).

- Nhớ người nhớ cả vầng trăng

Đêm đêm trời cứ xây bằng nước mưa (Nghĩ làm gì nữa).

- Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ hội Đặng đi qua ngõ

Để mẹ em rằng: Hát tối nay? (Mưa xuân).

Nguyễn Bính nói những biện chứng của tâm hồn, cái điều của muôn thuở, muôn người: “Mẹ cha thì nhớ thương mình, Mình đi thương nhớ người tình xa xôi” (Thư cho thầy mẹ), “Trời xanh còn khóc nữa là, Nhớ nhà ít, nhớ người ta thì nhiều” (Gặp nhau). Sống trong tâm lý tình yêu, cảm nhận về thời gian, không gian trong thơ Ông rất đặc biệt, theo cách dân gian nhưng vẫn là của riêng Ông: “Láng giềng đã đỏ đèn đâu, Chờ em ăn dập miếng trầu, em sang” (Chờ nhau), “Chờ mong như suốt đêm qua, Chàng ơi! Một tháng là ba mươi ngày”, “Cách một ngày ngựa với ba ngày đò” (Thư cho chị), “Nhà em cách bốn quả đồi, Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng, Nhà em xa cách quá chừng, Em van anh đấy, anh đừng yêu em” (Xa cách), “Thương như thế, nhớ làm sao, Kinh thành biết có mưa rào đêm nay” (Thương nhớ Kinh thành).

            Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính phần lớn là lỡ hẹn, ly biệt. Lỡ hẹn ngay từ chờ đợi bồn chồn, xốn xang của cuộc hẹn tình yêu đầu đời. Mưa xuân từ những bông hoa bụi “phơi phới bay” nhanh chóng chuyển thành “mưa nặng hạt”, những hạt mưa   sầu tủi, bẽ bàng. Con đường đến với tình yêu tưởng gần, hóa ra là xa ngái:

Mình em lầm lũi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê

Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt

Lạnh lùng thêm tủi với đêm khuya (Mưa xuân).

Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính rất nhiều nước mắt biệt ly. Ông đã vũ trụ hóa, vô tận hóa những nỗi đau và cô đơn của con người: “Nước mắt là cơm bữa, Hợp tan như bèo trôi”(Đề tặng ảnh), “Đêm nay hai đứa chung tình ấy, Khóc ướt trần gian để biệt nhau”(Bạc tình),“Cửa hàng nghìn khép lại, Tất cả một đêm nay, Có lòng ta rồ dại, Mở ra muôn nghìn ngày” (Một nghìn cửa sổ), “Trời xanh hãy trả lời tôi, Sao người đẹp lại là người..trời xanh” (Người con gái ấy), “Giờ này có lẽ chàng đương khóc, Cả một mùa đông khóc ở ngoài” (Nhớ thương ai), “Có lẽ ngày mai đò ngược sớm, Thôi nàng ở lại để…quên tôi” (Thôi nàng ở lại), “Người cách sông rồi…Tôi cách sông ”. Nhưng, đau khổ, cô đơn nhất của Ông, có lẽ vẫn là hành trình vô vọng đi tìm cái tôi của mình: “Tôi tìm đâu thấy mảnh trời Thần Tiên”, “Nhưng đau lòng biết bao nhiêu, Người tôi yêu chỉ biết yêu như người” (Đào Nguyên), “Thương tôi mình hiểu cho tôi nhé, Mà chỉ mình tôi mới hiểu tôi” (Mười hai bến nước). “Cái tôi là không thể chia sẻ được”( Berdylaev: Con người trong thế giới tinh thần, Nxb Tri thức, H., 2016, tr. 35). Và thực ra, chính Ông cũng không hiểu bản thân mình, vì thê Ông luôn luôn đi tìm mình. Rõ ràng, thơ Nguyễn Bính là “cuộc du hành của con người bên trong bản thân mình”. Hành trình ấy không bao giờ tới đích, bởi vì “ con người luôn là câu đố trên thế gian và có lẽ là câu đố vĩ đại nhất…Trong tâm hồn con người có những chiều sâu mà chỉ nghi lễ mới xuống tới được”.

Nguyễn Bính thành nhân vật điển hình của cặp phạm trù gia đình-không gia đình thời Thơ Mới. Đây cũng là cổ mẫu rất tiêu biểu của văn hóa và văn học nhân loại. Chỉ cần nhắc tới  tác phẩm “Không gia đình”của nhà văn Pháp Hector Malot, thế kỷ XIX, cũng đủ thấy. Trong thơ Nguyễn Bính, mẫu đề Không gia đình luôn song hành với mẫu đề  Đi- Lỡ bước. Với Nguyễn Bính, người mà “Mẹ hiền mất sớm, giời đầy làm thơ”, sự bùng nổ của cảm xúc Không gia đình càng nhức buốt.

- Con đi mười mấy năm trời,

            Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương.

            - Thầy ơi! Đừng bán vườn chè

            Mẹ ơi! Đừng chặt cây lê con trồng (Thư cho Thầy Mẹ).

            Những câu thơ ấy như được viết bằng nước mắt!

            Yêu gia đình, nhưng Nguyễn Bính vẫn là, nói đúng hơn, vẫn phải là “con chim lìa đàn”:

            - Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn,

            Ngày mai con lại lên đường ra đi (Lại đi).

            - Hỡi ôi! Những kẻ lên đường

            Đang tâm để cả cô đơn lại nhà (Chia tay).

Nguyễn Bính có nhiều bài về xuân tha hương, nhớ cố hương. Con người đẫm chất quê hương ấy làm sao không nhớ quê hương: “Em đi non nước xa khơi quá, Mỗi độ xuân về bao nhớ thương!” (Xuân vẫn tha hương), “Chiều ba mươi, hết năm rồi, Nhà tôi, riêng một mình tôi vắng nhà” (Xuân về nhớ cố hương). Tha hương là buồn, là cay đắng. Chính từ tầng sâu tâm thức của tiếng vọng Không gia đình, ông đã có những vần thơ tuyệt bút của thánh thần:

            Từ nay khi nhớ quê nhà

            Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân (Anh về quê cũ).

            Mây quê hương luôn bay trên đỉnh trời tha hương. Đám mây trên bầu trời tha hương đang ngấn lệ trong thơ ông, hay lệ trong thơ ông đã kết thành những đám mây trên đỉnh trời ta hương ấy? Thực mà rất ảo! Ảo mà rất thực!

            Các nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính phần lớn cũng trong trạng thái tinh thần Không gia đình, cô đơn.Thơ Nguyễn Bính chạm vào tâm trạng, số phận nhiều cuộc đời. Đó là cô sư nữ “Có cô sư nữ người mong mỏng, Buông thõng dây gầu xuống giếng thơi” (Chiều quê); cụ sư già: “Sư già quét lá sau chùa, Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông” (Chùa vắng). Đó là tráng sĩ: “Đêm nay tráng sĩ không nơi trọ, Nằm tạm qua đêm quán dọc đường” (Quán lạnh). Đặc biệt, điển hình cho số phận, tâm trạng Không gia đình chính là người phụ nữ trong “Lỡ bước sang ngang”: “Mười năm gối hận bên giường, Mười năm nước mắt bữa thường thay canh”. Tiếng pháo, dây pháo đỏ trong ngày cưới của các cô gái luôn gắn với tiếng thở dài của cả người trong cuộc và người ngoài cuộc. Cả đến người mẹ cũng sống trong bồn chồn, khắc khoải lo âu với trạng thái Không gia đình của người con gái khi đứa con bước chân về nhà chồng. Người mẹ gượng cứng cỏi, chủ động bao nhiêu trước mặt con, thì lại yếu mềm bấy nhiêu ngay khi bàn chân con bước khỏi nhà mình. Những câu thơ dưới đây cũng chính là “Huyền thoại mẹ”:

            Đưa con ra đến cửa buồng thôi,

            Mẹ phải xa con khổ mấy mươi.

            Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc,

            Đêm đêm, mình mẹ lại đưa thoi (Lòng mẹ).

Chỉ dẫn một vài cổ mẫu trong thơ Nguyễn Bính, đủ thấy thơ Ông có những tầng sâu, ma lực thế nào! Chính độ đậm đặc và độc đáo của văn hóa của vùng quê Vụ Bản, Nam Định, tài năng thiên bẩm cùng với sự không thỏa mãn của nhà thơ với đương thời lúc bấy giờ đã dẫn Nguyễn Bính đi vào những bề sâu “tìm thấy trong vô thức mình cái nguyên tượng có khả năng bù đắp lại cao nhất sự tổn thất và què quặt của tinh thần thời đại”( Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn hóa Thông tin, H., 2000, tr. 82, 83) lúc bấy giờ. Mặt khác, chính thơ Nguyễn Bính cũng đã “đưa lại sự sống cho các nguyên hình và hình tượng đang bị thiếu hơi thở thời gian”( Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn hóa Thông tin, H., 2000, tr. 82, 83).Thơ Nguyễn Bính luôn là độc đáo, niềm đam mê tinh thần của riêng Ông nhưng cũng là tâm trạng phổ quát, tiếng lòng của nhiều cá nhân không hề quen biết.Thơ Nguyễn Bính tập hợp được nhiều giá trị, là thơ của nhiều người, nhiều nhà, nhiều thời. Những cổ mẫu thức đan dệt độc đáo trong thơ Ông đã góp phần làm cho thơ Nguyễn Bính không chỉ ở tầm dân tộc mà còn thuộc tầm nhân loại.

   Nguyễn Bính đã và sẽ là nhà thơ của nhiều thời! Với ý nghĩa và tầm vóc thơ Nguyễn Bính, việc dịch và giới thiệu rộng rãi thơ Nguyễn Bính với cộng đồng quốc tế là rất cần thiết. Để nhân loại hiểu Việt Nam hơn!

                                                                         Hà Nội, tháng 5 năm 2018

                                                                                       B.M.N.

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *