Sáng tác trẻ

16/9
8:14 AM 2016

GIỚI THIỆU CÁC CÂY BÚT THAM GIA HỘI NGHỊ NHỮNG NGƯỜI VIẾT VĂN TRẺ TOÀN QUỐC : ĐINH PHƯƠNG, CAO NGUYỆT NGUYÊN

Nhân dịp Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Hội nghị những người viết văn trẻ vào tháng cuối tháng 9/2016 tại Hà Nội, trang VANVN.NET giới thiệu sang tác của một số cây bút trẻ tham gia hội nghị này. VANVN.NET chúc mừng những người viết văn trẻ cả nước về dự hội nghị này.

                                                                 ảnh minh họa (nguồn:Internet)

GIỚI THIỆU CÁC CÂY BÚT THAM GIA HỘI NGHỊ NHỮNG NGƯỜI VIẾT VĂN TRẺ TOÀN QUỐC : ĐINH PHƯƠNG, CAO NGUYỆT NGUYÊN

Nhân dịp Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Hội nghị những người viết văn trẻ vào tháng cuối tháng 9/2016 tại Hà Nội, trang VANVN.NET giới thiệu sang tác của một số cây bút trẻ tham gia hội nghị này. VANVN.NET chúc mừng những người viết văn trẻ cả nước về dự hội nghị này.

 

ĐINH PHƯƠNG (QUẢNG NINH)
 

Lau lách chiều trắng xóa (Truyện ngắn)

 

Tân Hợi, năm thứ 2, Minh Hồng Vũ thứ 4 tôi mơ giấc mơ về ngai vàng. Lúc ấy, có nhiều sự kiện nhưng lại chỉ có một vài con số được ghi lại, số ít người được nhắc đến. Tôi hay Lê đều không buồn vì điều ấy. Chúng tôi yêu nhau, bám vào những mảnh kí ức của riêng mình để tồn tại. Trong đó có những kí ức về vua:

Sau ngày quân Chiêm Thành đánh vào kinh thành Thăng Long lần thứ nhất, vua về, trời đất xanh xanh, đỏ đỏ. Mưa lất phất bay. Những cơn mưa từ quá khứ xé toạc tấm rèm che kiệu vua. Chúng tôi chen chân trong dòng người xô đẩy, chen lấn xem mặt vua. Vua mệt mỏi, già nua sau những ngày chạy trốn sang Đông Ngàn. Ngài gật gù giữa giấc ngủ chập chờn hư ảo. Thỉnh thoảng giật mình tỉnh giấc đưa tay vuốt râu mà có cảm tưởng đang nâng rượu độc. Quân, quan, tì thiếp đi phía sau hỉ hả vui mừng vì thoát được nạn ngoại bang trong gang tấc. Vua nhìn con dân xa lạ, không còn nhận ra con dân của ngài nữa. Ngài đã bỏ ba lần chống quân Nguyên Mông anh hùng sang một bên để giữ lấy bình yên cho riêng mình trước quân Chiêm Thành.

Lê nhìn vua mãi chán quay sang tôi bảo Lê chẳng thích làm vua. Chỉ cần chỗ nào dựng được nếp nhà nho nhỏ rồi hai đứa cày cấy nuôi nhau. Tôi quay sang, Lê mờ nhạt, hư ảo. Khoảng tím nhờ nhờ trước mặt báo hiệu điều chẳng lành. Số phận như chiếc lá mỏng rơi giữa dòng nước lũ.

 

Tôi sinh ra nơi một con sông vô danh Đại Việt. Gió cuốn những ước mơ năm mười lăm tuổi trắng ngần của mẹ thả lênh đênh trên sóng. Gió biến nỗi ô nhục của mẹ thành tiếng u u hờn trách vang vọng, lang thang trên mảnh đất đầy bất trắc này. Gió có lúc là bạn đồng hành, thoáng thay đổi thành kẻ phản bội. Cứ lần lần luân chuyển từ thái cực này sang thái cực khác không biết sao mà bắt. Càng đi về phía kinh thành Thăng Long gió càng nhiều. Tiếng u u cũng đậm nét, tuồng như chỉ cần đưa tay ra là nắm được. Người già sống trong kinh thành lâu nghe cũng lắc đầu không phân biệt được tiếng vọng ấy của bên này hay bên kia, người Việt hay người Chiêm.

Gió biến tiếng u u của muôn người chết vì chiến trận tràn ngập vào hoàng cung. Những con người sống trong ấy chống lại nỗi tuyệt vọng bằng cách không nguôi nhớ lại quá khứ. Ba lần vinh quang tột đỉnh được hậu thế nhắc đến liệu có đại diện, che giấu được cho tất cả? Nó có ích với cái gì đã chết, còn cái đang sống thì không. Nụ cười gượng gạo thoáng xám, dấu hiệu tàn phai của một vương triều rực rỡ. Họ hiểu rõ hơn ai hết vinh quang của nhà Trần chỉ còn là hồi ức lưu cữu rêu xanh.

Nhiều lần nằm nghe gió thổi, tôi thường hỏi mẹ.

- Mẹ ơi gió từ đâu đến?

Mẹ im lặng, tôi nằm gối đầu lên đùi mẹ, tay mẹ đan trên mái tóc dài rối bù. Từng nhịp chậm chạp cuốn quanh những lọn tóc tỏa ra mùi hoi hoi của bùn. Ánh mắt mẹ trong đêm xa xăm giống vì sao sắp rụng. Loài cú về đêm không ngủ để săn mồi, mẹ thức nhìn tôi thật lâu, mường tượng khuôn mặt và thở dài. Cái đêm mẹ - người cung nữ xinh đẹp vừa bị bắt vào cung - bị biến thành đàn bà cũng đầy gió. Mẹ, con mồi bị săn đuổi tận cùng bởi gã thợ săn xa lạ - một viên tướng ngạo nghễ đến từ bên kia biên giới. Hắn ngắm nghía, chờ đợi và hành quyết. Hắn đưa mẹ đến tận cùng đau đớn và thỏa mãn. Ngọn gió đen cuồn cuộn sắc nhọn đâm xoáy vào nơi thiêng liêng nhất cuốn đi tất cả. Mẹ bị ném phũ phàng xuống dòng sông thuở nhỏ đã tắm táp, nô đùa, nuôi dưỡng tình yêu với người tráng đinh Đại Việt làng bên cùng những tiếng cười khả ố và lời cợt đùa quái ác: “Mày mà có thai. Nó sẽ làm vua đấy!”.

Da thịt lõa lồ hoang tàn, lật úp, chạm làn nước đen lạnh buốt. Một mầm sống miễn cưỡng lai tạp của hận thù gieo vào chờ ngày sinh ra. Cái ngày vinh quang mơ màng ảo tưởng. Giá lúc ấy mẹ chết đi, bay lên như nắng ngày khải hoàn buông vàng cung cấm thì tốt biết mấy.

Vậy mà mẹ vẫn sống, lay lắt ngồi gỡ những kí ức tốt đẹp nhất của mình ra rồi tết lại. Hết ngày này sang ngày khác. Năm này qua năm khác. Kí ức tết mỏng dần cuộn lại chẳng bằng ngón tay út. Tôi sinh ra không đủ chín tháng mười ngày. Lần đầu tiên nhìn rõ vô số nếp nhăn trên khuôn mặt mẹ...

- Con phải làm vua! Vua nước Chiêm Thành!

Trăng hôm mẹ muốn tôi làm vua rất đỏ. Ánh sáng tỏa xuống đỏ lịm khoảng trống trước nhà, xuyên qua cả những lỗ thủng trên mái dọi xuống bằng quả trứng gà, trứng vịt. Tôi chạy trốn. Càng trốn càng đỏ tợn tạo. Đêm ấy giữa sự sợ hãi tôi mơ về ngai vàng. Ngai vàng có tai, mũi, mồm, có chân vừa chạy trốn vừa sủa giống chó, thỉnh thoảng khi người đuổi lơi lỏng lại quay rình cắn.

Tỉnh dậy, nằm chong chong giữa không gian đỏ ối đã chuyển sang hồng nhạt khi về sáng, tôi nghĩ, nó chẳng đáng để đuổi theo, có gì hay đâu, chẳng hơn gì con chó, thịt có khi không ngon bằng thịt chó lão Đả điên gần bến đò thỉnh thoảng vẫn bắt trộm, đập chết, làm thịt mời tôi ăn. Vậy mà mẹ lại bắt tôi ngồi lên nó.

 

Bước khỏi nhà, từ nhà ra đến cánh cổng vô hình là mười bước, phu kiệu đợi vua ở quãng chín, giữa tám và mười. Tha thẩn tôi đi tìm Lê. Mỉm cười nhìn mặt trời đứng ở đằng xa, sắc áo trắng đan hồng chưa dám vào chầu. Lê hay vẽ người ở cổng kinh thành. Mặc nắng và mưa, ngày lẫn đêm. Mặc cả có tôi hay không. Nhiều lúc thoáng buồn tôi không khỏi chạnh lòng. Nếu tôi làm vua tôi sẽ dựng ngay cổng kinh thành một tòa nhà lớn hơn quán ăn lớn nhất kinh thành để Lê thích vẽ lúc nào thì vẽ. Có hàng đàn thị nữ, thái giám hầu hạ.

Mải đi, mải nghĩ, giật mình tôi đã ở cổng kinh thành từ lúc nào. Phía bên kia đường Lê ngồi xổm, dừng vẽ, quệt quệt tay vào mũi nhìn tôi mỉm cười, má lúm đồng tiền đỏ lựng, xong lại cúi xuống chăm chú. Hình người giống hình nhân thế mạng mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn mua đốt, mặc long bào có mấy con rồng đang bay, rồng giống giun đất, đội long bào như cái nồi đồng nấu cơm, vẫn còn thiếu đôi chân. Mặt thiếu đôi mắt. Lê vẽ chân đang chạy, vẽ mắt đang nhìn. Đắn đo, nghĩ ngợi thế nào lại xóa nhòa mắt đi. Vẽ rồi xóa đi mấy lần vẫn chưa ưng ý. Đoạn xương cánh tay của ông Lao, Lê vẫn dùng để vẽ hết nâng lên lại hạ xuống. Mặt Lê lấm chấm mồ hôi, quần áo dính đất vàng khè, mỗi chuyển động của Lê đều làm bụi bay tứ tán xung quanh. Có cơn gió khe khẽ thổi qua, tóc hai bên thái dương và tóc mái Lê bay bay xuôi theo gió.

Sáng sớm thức dậy, Lê thường ra đây ngồi vẽ.

Tôi thương Lê biết ngần nào. Nếu tôi làm vua chắc chắn Lê sẽ làm hoàng hậu. Tôi yêu Lê như nước dòng sông vô danh chảy mãi không bao giờ cạn. Thứ tình yêu của tuổi mười sáu giãn cách bởi hết đợt binh đao này đến đợt binh đao khác. Lần quân Chiêm đánh vào Thăng Long thứ nhất, tôi dắt tay Lê lẫn vào dòng người đen đỏ chạy trốn khỏi cổng kinh thành. Chạy càng nhanh càng tốt, càng táo tợn càng tốt. Chúng tôi chạy chậm hơn bởi tầm nhìn bị nước cản, bùn nhão quánh đặc níu chân. Có một phần ba số người trong đoàn gồm người già, trẻ con không chạy được đã bị quân Chiêm bắt kịp. Tiếng than khóc ai oán lẫn vào mưa. Dòng nước đỏ từ dưới chân đỏ lên ngập mắt cá chân. Dù Diêm Vương cho mở cửa địa ngục thì cũng không thể có nhiều máu đến thế. Anh hùng lẫn vào thảo khấu. Người lương thiện bị nhầm với lưu manh, cướp cạn. Quan quân lẫn với dân đen, tù tội. Ai ai cũng lo cho bản thân mình. Gồm tính mạng, của cải, người thân. Phải sống để tiếp tục lay lắt chìm nổi, bôn ba. Không có lời kêu gọi ở lại kinh thành chống giặc. Chẳng đắn đo gì khi dắt díu nhau đi trốn, đạo lí trung quân để lại cho con cháu đời sau.

Ở lần chạy trốn thứ hai tôi vẫn nhớ ông Lao, cha Lê đã bị dẫm chết thế nào dưới dòng thác người ùn ùn từ kinh thành ra. Lúc đó, ông thấy chiếc nhẫn ngọc xanh mà ai đó đánh rơi, ông cúi xuống, người từ phía sau xô lên, xô mãi. Ông ngã vập úp xuống đất. Dòng thác chân vẫn ầm ập tiến qua không ngừng nghỉ. Dừng lại là chết, là phải đối mặt với giống người đen đủi, man rợ đến từ bên kia biên giới có nhiều nét giống tôi, là đầu nhìn thấy thân nằm dưới đất. Ông Lao chẳng kịp kêu, bị nuốt chửng. Hình ảnh đập vào mắt tôi và Lê khi cố ngoái lại là phút cuối cùng của cuộc đời ông. Chết mà mồm cứ ngáp ngáp như con cá mè mắc cạn trên bờ. Lão Đả nghe tôi kể, cười hức hức, vỗ đùi bảo rằng lúc ấy dứt khoát ông Lao chửi vua. Tôi nửa tin nửa ngờ, tin vì ông Lao là người của những câu chuyện quá khứ và mất niềm tin vào hiện tại. “Cái hồi…”. Chuyện của ông bao giờ cũng bắt đầu như thế và sau đó bao giờ cũng là chuyện cha ông theo vua Trần Anh Tông vào đất Chiêm Thành như vào chỗ không người… chuyện Chế Chí thần phục Vua… Rồi chuyện ông theo tướng A Song đánh bại Chiêm Thành ở cửa biển Dĩ Lý ra sao… Kết thúc, bao giờ ông cũng ôm mặt hức hức nói trong nước mắt: Thế mà bây giờ… Còn ngờ, vì chưa bao giờ tôi thấy ông Lao buông lời chửi vua cả…

 

Tôi và Lê bị dòng người ngựa đẩy đi từ sáng sớm, phải đến chập tối mới quay lại được. Ánh trăng lành lạnh trải con đường quen ngày ngày chúng tôi vẫn chạy nhảy, nô đùa. Bóng hai đứa nham nhở chụm lại che xác ông Lao héo rũ, khô cắt như con chuột chết nằm trên đường cái quan bị chân người, ngựa, bánh xe nghiến qua. Máu trộn lẫn với đất cát nắng gió tháng năm hong khô từ lúc nào. Người kinh thành về sau nghe chuyện đều chê trách ông Lao tham lam. Tôi không thế. Tôi nghĩ cha Lê là anh hùng. Chỉ có anh hùng mới dám lấy cái mình muốn trong lúc nguy cấp mà không sợ sệt, lo lắng. Chỉ có anh hùng mới chết dễ dàng thế.

Lê bảo: “Cha em chết khổ quá.”

Tôi đáp: “Máu thịt lẫn vào giày dép người kinh thành thì biết đâu mà tìm.”

Lê vụt chạy đi kiếm đâu được cành cây khoanh hình người ông Lao lại. Hình lật úp khum khum giống chiếc lá xanh bị người ta bẻ từ trên cành ném xuống. Tôi chạy lại phía rìa tường thành tìm kiếm. Lúc sau chạy lại, chỉ kiếm được hai mảnh bát vỡ. Một mảnh đưa Lê, một mảnh tôi cầm, chiếc áo cũ của ông Lao trải để bên cạnh. Xương cốt, thịt thà, đất cát trộn thành từng tảng dày hơn đốt ngón tay. Cậy lên từng mảng, từng mảng. Đầu mất, còn lại thân mình bết trong quần áo không phân biệt được đâu là cổ, ngực, chân, tay. Chiếc nhẫn không tìm thấy, nó lăn đi góc nào hay bị người ta lấy mất.

Trong lúc cậy xương thịt ông Lao, Lê không khóc. Lê đếm những ngờ vực của đời con gái thả xuống dòng sông vô danh nơi tôi và Lê sinh ra. Nước mắt bị nước sông lấy hết rồi. Cái còn lại chỉ là nhan sắc. Mà người đàn bà có đẹp đến mấy mà không biết đến nước mắt, đến đa đoan trên mảnh đất Đại Việt này cũng vất đi.

Mẹ tôi cũng thế. Lần cuối cùng mẹ khóc, nước mắt dành cho người tráng đinh Đại Việt làng bên ngày chia tay trên triền đê xanh ngăn ngắt giống cỏ mền chầu tiếp giáp hai làng. Chẳng dám cầm tay, dặn dò trước bao mắt nhìn. Người ấy mang theo nước mắt của mẹ, gói vào lòng vào dạ ra đi, sương bám trắng trên mái tóc xanh của tuổi mười bảy. Trận Đồ Bàn nước mắt ấy cùng máu nhuộm đỏ đất Chiêm. Đỗ Lễ can ngăn không thành bị mặc áo đàn bà. Vua Trần Duệ Tông trúng tên tử trận. Các tướng Nguyễn Lạp Hòa, hành khiển Phạm Huyền Linh cũng tử trận. Ngự Câu vương Trần Húc bị bắt đầu hàng Chế Bồng Nga được gả con gái. Đỗ Tử Bình, Lê Quý Ly, thượng hoàng Trần Nghệ Tông đều được nhắc đến qua lời của người chép sử. Chỉ có người tráng đinh của mẹ tôi cùng bao người phụ nữ khác là vô danh nằm lại cô đơn, lạnh lẽo nơi đất người để chờ hóa thành cát bụi chuyển thai kiếp khác. Bao nhiêu cuộc chiến từ cổ chí kim trên cái xứ sở nghèo nàn này đều thế. Người quan trọng nhất làm nên cuộc chiến bị lãng quên.

Lê lấy cạnh sắc của miếng bát vỡ tỉ mẩn cạo hết thịt trên cánh tay ông Lao rồi giữ lại xương bên mình không để lẫn vào đám xương thịt kia. Tôi hỏi Lê giữ lại làm gì Lê không nói. Ánh mắt đỏ sọng, hận thù. Buộc túm đống xương thịt khoác lên vai đứng dậy. Tôi không dám hỏi gì thêm, nắm chặt tay Lê mà chạy mặc cái đói dày vò. Chúng tôi chạy suốt đêm, chạy theo tiếng khóc lóc, nỉ non cùng ánh đuốc xa xa phía trước. Cũng may quân Chiêm Thành sáng sớm hôm sau mới vào đến kinh thành.

Khuya ấy, khi đến được nơi dừng chân Lê không ngủ mà thức mài xương. Tiếng quèn quẹt, quèn quẹt giống tiếng nghiến răng khi ngủ, giống tiếng cạo cháy nồi, giống cả tiếng nghiến răng vì tức giận. Trăng mưng mủ xanh lè đổ bóng, chưa lần nào trong đời tôi thấy trăng xanh.

 

Vừa lúc tôi định sang đường, tiến lại phía Lê thì có kiệu của vua từ trong kinh thành đi ra. Kèn trống vang trời. Bốn đứa trẻ hai trai, hai gái ghẻ lở khắp người khóc ré lên, đái ra quần ôm chặt lấy chân người đàn bà mặt xanh lét, tóc bạc xóa khi đang vào thành. Dấu hiệu của đói và lo lắng. Mấy lần chạy trốn tôi cũng thoáng thấy mái tóc ấy trong đám hỗn loạn. Họ hẳn là một gia đình, chẳng lần nào thấy người đàn ông, hẳn ông ta đã chết trong vô vàn trận chiến lớn nhỏ mà người Việt lẫn người Chiêm có thể nghĩ ra. Mấy đứa trẻ kia rồi sẽ chết vì hòn tên, mũi giáo như cha hoặc sống lay lắt vì đợi chờ, trốn chạy như mẹ.

Cấm vệ quân xô tôi ngã dúi dụi về một bên khi đang quan sát mấy mẹ con chưa kịp chạy vào. Định chửi, nghĩ chẳng được gì lại thiệt vào thân nên thôi. Phía bên kia đường Lê bị hai cấm vệ quân vây lấy, kéo dậy khi đang mải vẽ. Một người râu quai nón giằng khúc xương cánh tay của ông Lao ra khỏi tay Lê, bẻ gẫy vứt chỏng chơ hai khúc trắng hếu dưới đất. Tiếng cấc khô khốc vang lên kèm tiếng rú đau đớn giữa không trung. Hồn ông Lao nhập trong khúc xương vặn vẹo thành hai miếng. Gió cuốn bay lên còn nhìn rõ khuôn mặt nhăn nhúm chậm chạp lẩn vào tán cây. Người cấm vệ quân mắt trắng dã cầm giáo chĩa vào ngực Lê. Lê cúi nhanh xuống nhặt khúc xương có đầu nhọn định đâm vào ngực mình thì bị giáo chọc vào tay ngăn lại. Tay Lê tóe máu, cơn đau không đến từ vết thương. Lê muốn chết mà không được.

Người ta hỏi Lê vẽ gì trên đất?

Lê bảo vẽ vua.

Mắt đâu.

Vua không có mắt.

Lê trả lời gọn lỏn không mảy may run sợ. Người ta quát tháo, trói chặt, chờ xử. Người ta khép Lê vào tội khi quân. Hai người cấm vệ quân túm lấy Lê xềnh xệch kéo đi, hướng khuất tầm mắt vua. Người chết thường linh thiêng. Mảnh đất ngàn năm này linh thiêng được vì thế. Tôi là người sống, tôi không linh thiêng. Tôi chạy theo bóng Lê trong khi người ta dẫn Lê đi. Tôi gọi tên Lê khản giọng. Mệt nhoài, ngã xuống, lại đứng dậy đuổi theo. Nắng cản tôi lại. Đầu đau nhói.

Lê ơi! Lê...

Bóng Lê vun vút.

Trước khi lẫn vào đám quan binh đầy ứ, Lê ngoái lại nhìn tôi. Lê yêu tôi, tin tôi. Tôi biết. Tình yêu của tuổi mười sáu kèm nghĩa khí. Tuổi mười sáu là tuổi sẵn sàng biến mất cho điều mình tin tưởng nhất. Lê trở thành anh hùng không chính sử. Chẳng ai nhắc tên Lê nữa ngoài tôi cùng bóng ma đã chết của ông Lao.

Tôi lầm lũi trở về nơi thấy Lê lần cuối cùng. Hình vua vẫn còn trơ trơ trên đất. Dấu ngựa, dấu người hằn in. Tôi vẽ mắt cho vua, vẽ thế nào cũng không vừa ý, nước mắt rơi xóa đi. Chiều lả xuống sau lưng, không ra đỏ, không ra xám, chiều đầy nước mắt. Lê không còn bên tôi nữa. Lần gặp nhau này là lần sau chót. Tình yêu tuổi mười sáu không bền như trời đất mà lung lay, biến đổi khôn lường. Ba lần tôi cùng Lê chạy khỏi kinh thành. Ba lần chúng tôi cùng về bên nhau. Thế mà giờ đây cách xa biền biệt biết bao giờ gặp?

Mảnh xương ông Lao vẫn còn máu Lê, tôi lấy cắt dọc cánh tay. Máu ri rỉ chảy, tuổi mười sáu hòa cùng nhau. Máu chảy dọc hình vua thành hình đất nước. Đất nước binh đao chinh chiến từ Bắc vào Nam, đời này qua đời khác...

Tay tôi xiên xẹo, vẽ đủ thứ bằng máu và nước mắt. Cuối cùng vẽ Lê. Lê đẹp lắm. Vẽ mãi mà không giống. Trăng đã xuống. Tôi vẽ Lê trong trăng. Gió thổi ào ào, tôi vẽ Lê trong gió. Mẹ đến, tôi nhìn mẹ vẽ Lê. Mẹ không giống, mẹ đầy tham vọng. Lê của tôi thuần khiết như sương sớm. Xóa hình Lê đi vẽ lại, mẹ vẫn còn trước mặt. Mẹ không phải Lê. Lão Đả điên đến. Mắt tôi hoa lên, gục xuống trong tay lão.

Lão nói với mẹ: “Máu người không phải nước lã.”

Mẹ đáp: “Vậy mà nó vẫn cứ chảy.”

 

Buổi sáng tháng sáu đói dài đói rạc, mẹ đi từ rất sớm. Mỗi lần người Chiêm tràn qua là mỗi lần bà có thêm nhiều vàng, bạc trang sức cùng quần áo mới. Về mẹ kể, giọng ráo hoảnh:

Người ta đem cái Lê ra chém đầu giữa chợ. Không có cũi đóng, cùm đeo. Không có quan xét xử, giờ ngọ ba khắc, chỉ có hai người lính một mắt trắng dã, một râu quai nón mỏi mệt ngáp dài ngáp ngắn giong ra giữa chợ chém rồi bỏ về uống rượu. Không có cái nhìn tiếc thương. Chỉ có xác người chết. Vài người còn sống thì cố gắng lê lết về phía những nhà giàu chờ cơ may xin được cái gì bỏ vào mồm. Dân các lộ ùn ùn đổ đến chật kinh thành. Cái chết của nó rơi vào giữa nạn đói không khuấy động được không gian ngột ngạt, tù túng. Chiếc nhẫn ngọc xanh từ trong mồm rơi ra nhưng không ai dám nhặt.

Mẹ không cho tôi đi xem chém đầu Lê. Mẹ trói hai tay, hai chân tôi lại. Bảo anh hùng chớ lụy ải mỹ nhân. Mẹ bảo tôi phải làm vua. Tôi cầu xin, mẹ không nghe. Mẹ muốn tôi làm vua. Tôi yêu Lê. Mẹ bảo Lê chết rồi thì yêu đương gì. Tôi không tin. Tôi chờ cùng mẹ.

Một năm…

Hai năm…

Mất thêm mười một năm nữa.

Tôi đưa ngón tay cái bị trói mười một năm tê dại mất hết cảm giác lên miệng nhai. Tôi không còn mười sáu, có còn chỉ riêng Lê. Tôi nhai cả kí ức của mẹ lẫn kí ức của tôi về Lê. Kí ức đắng của mẹ, ngọt của Lê. Nhai mãi, nhai hết tôi muốn nôn ra. Nôn hết cả quá khứ, hiện tại, tương lai tanh nồng, mặn chát và đỏ ối.

Ba lần quân Chiêm vào kinh thành Thăng Long mẹ không chạy trốn, ý còn chờ…

Mi không được phản bội - Mẹ tôi hét lên.

Phản bội cái gì? Trận Hải Triều vừa kết thúc, thủ cấp Chế Bồng Nga được chở về Bình Than báo tin chiến thắng. Tôi phải sống cuộc sống của tôi chứ, sao mẹ lại bắt tôi sống cái cuộc sống của mấy chục năm trước đây? Tại sao bà cứ bắt tôi bám theo cái lời khả ố của kẻ mà tôi đang mang dòng máu trong mình? Bám theo cái mục đích làm vua Chiêm Thành viển vông thì tôi làm sao làm được. Chiến thắng của người đàn ông đã sinh ra tôi không thuộc về tôi. Chiến thắng của cái đất nước đã nuôi tôi lớn lên cũng không thuộc về tôi.

Tôi yêu Lê, tôi chỉ thuộc về Lê.

 

Tôi ra bờ sông sau khi mẹ chết. Lão Đả điên tóc trắng phau phau. Lão bảo ngồi đợi tôi mười một năm nay. Tôi tin. Lão hỏi tôi đi đâu. Tôi nói tùy lão.

Lão xuôi dòng sông vô danh nơi tôi sinh ra, chợt nhớ tới mong ước của Lê về một nếp nhà nho nhỏ. Tôi thả hình bóng Lê mười sáu vẹn nguyên xuống dòng sông vào ngày cuối xuân nhiều gió.

Hai bên bờ là cánh đồng vừa gặt xong, trơ gốc rạ và chân nhiều đứa trẻ tróc lở, còi cọc liên tục di chuyển từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác. Mộ người Việt lẫn mộ người Chiêm, cũ lẫn mới. Cái chết hiện diện cùng nhau trong những nắm đất phù sa Đại Việt. Nhìn lại phía kinh thành. Lau lách hóa cờ trắng xóa buổi chiều.

 

 

Chiều kí ức phủ gai

Đinh Phương

 

Có những sự kiện nằm ngoài chính sử lẫn dã sử chỉ người trong cuộc mới nhớ.

Kiến Gia năm thứ 7, Đinh Sửu. Tháng hai có thánh chỉ. Toàn kinh thành trồng gạo gai, ai không theo chém đầu.

Kiến Gia năm thứ 14, Giáp Thân. Trước khi truyền ngôi cho Hinh, vua ra lệnh chặt, đốt toàn bộ gạo gai trong kinh thành. Quạ kêu váng trời. Khói bốc nghi ngút. Từng tảng đen ràn rạt bay đi. Quạ non rơi xuống chết không biết bao nhiêu mà kể. Mùi tanh lộng óc mấy tháng không tan.

 

Kinh thành Thăng Long ngày đầu tháng Chạp. Cái lạnh xuôi xuống từ phương Bắc nằm im lìm hơn nửa tháng không tan cứa vào da vào thịt. Trong vườn, lá đổ nhiều dù chẳng có gió. Nhịp rơi chậm chạp.

Chiều đến. Tôi vẫn giữ thói quen từ nhiều năm vun lá lại đốt. Lửa ngún vào lá. Cái lạnh hãm bớt lửa bốc lên. Khói bay tựa sương. Những mái điện cong vút đổ ập trong mắt.

Cơ nghiệp hơn hai trăm năm của nhà Lý tan tành. Giang sơn giờ của nhà Trần. Vậy mà hình bóng Hinh trong tôi vẫn là hình bóng vị vua nhỏ nhà Lý, hồn nhiên, véo von mỗi buổi chiều. Tay Hinh hồng nhạt, từng ngón từng ngón nhón chiếc lá gạo khô lên, nâng niu, ngắm, thương, rồi đốt. Chậm chạp gỡ từng mảnh kí ức con trẻ của mình ra vương trên lá. Hinh đốt chiều này sang chiều khác mà vẫn không sao hết được kí ức của tám đời vua trước. Kí ức chất chồng. Hai má đỏ lựng. Ánh mắt trải ra trên ngọn lửa nóng bỏng rẫy vươn lên vặn vẹo đủ hình hài. Từng khuôn mặt của dòng họ hiện lên chằm chằm nhìn Hinh. Buồn có, vui có, cả bi phẫn lẫn hận thù.

Con đường này dẫn đi đâu?

Cuối những buổi đốt lá bỏ lại đằng sau chuồn chuồn kim xanh đỏ, cỏ gà, khói vương vít, Hinh hỏi. Tiếng thở dài kéo đêm về gần sau lưng. Giờ Dậu vuông vắn điểm canh. Tàn vương âm thanh vọng khắp.

Dải đường mờ mờ dẫn từ nội điện ra tràn bụi đỏ…

 

Lần đầu tiên tôi đốt lá là chiều một ngày giữa hè. Mặt trời nhoi nhoi trên cao, ngày đằng đẵng. Lửa bốc lên chưa nhìn thấy ngọn đã nhòa trong nắng. Thái giám, cung nữ từ điện Long An, Long Thụy chạy sang mắng nhiếc. Hinh nhỏ thó nấp sau lưng thút thít khóc. Tôi im lặng, cắn chặt môi. Mồ hôi từ gáy chảy xuống lưng, theo rãnh xuôi xuống nữa, phía dưới hầm hập.

Vua Huệ Tông say khướt đi qua.

Mọi người tản ra nhanh, tránh vua, không hành lễ.

Vua giống anh hề áo dài trong các vở chèo hát ở sân đình quê tôi. Long bào nhem nhuốc buộc túm trước bụng. Tay giáo, tay mộc vung bốn phía. Cờ xí cắm ở búi tóc trên đầu bay phần phật. Chân vẽ vài bước thẳng, vài bước xiên, rồi ngã. Mộc, giáo văng ra. Thái giám vội vàng cúi xuống nhặt lên dâng vua.

Ta là… thiên tướng… thiên tướng… giáng trần… trần… đây. Ta… ta… xuống giết… giết… hết… bắt hết… đọa địa ngục hết… bọn… bọn… người phản… phản… trắc… tiếm… quyền… quyền… tranh ngôi… đoạt… đoạt… vị. Nào… nào… ma quỷ trốn ở đâu mau ra. Nếu không ra… ta mà bắt được… sẽ đầu một nơi, thân một nẻo lúc ấy đừng trách. Chết đau… chết đớn…

Tôi cuống cuồng quỳ hô vạn tuế. Vua chẳng để ý, chạy lại gần đống lá gạo đang cháy giả làm thiên tướng nhảy qua đống lửa, vung lên, chém xuống. Lửa bén long bào khét lẹt. Hinh mặt mũi tèm nhem, quệt ngang quệt dọc cuống cuồng định chạy vào. Tôi giữ lại.

Tại sao thấy vua cha Hinh không hành lễ?

Hinh sợ vua ôm Hinh mà khóc. Mỗi lần thấy Hinh vua cha đều khóc rất lâu. Hinh dỗ thế nào cũng không nín. Cứ khóc mãi. Nước mặt chảy ướt đầu, ướt mặt.

Tôi buông tay.

Vị thái giám hầu vua có cặp mắt đen láy, sâu thẳm. Góc nắng chênh chếch. Bóng ba người in nhễ xuống sân gạch vẹo vọ. Về sau này khi vua Huệ Tông chết, tôi không còn thấy vị thái giám đó nữa. Có người bảo vị thái giám ấy chết theo vua ở chùa Chân Giáo. Có người bảo đi theo đoàn buôn mất tích trên biển. Tôi nghe, cảm thương. Nhớ đến hồ nước mùa thu nơi làng quê cũ. Ở bên kia hồ sáng sớm thường cất lên tiếng sáo trong văn vắt. Tôi vục nước lên mặt rửa. Vục được cả tiếng sáo. Âm vang vọng. Lẫn cả tiếng lá rơi lẫn tiếng chim.

Vua múa may chán, mệt, vứt toẹt giáo mộc vào lửa, ngồi bệt xuống đất, người thái giám dìu vào bậc tam cấp. Vua gục vào con rồng đá ở bên. Con rồng đá thức dậy khẽ quậy mình, chân đầy vuốt ẩy vua ra rồi lại ngủ tiếp. Tôi bụm miệng sợ hãi. Vị thái giám thản nhiên ngồi xuống lấy người làm chỗ dựa cho vua. Mắt sâu, buốt cứa vào kí ức. Không biết giờ này ở quê bố mẹ, hai đứa em trai tôi đang làm gì? Họ là những người thân duy nhất, dù cái thân thiết ấy chỉ nửa vời, tù túng. Bữa cơm tối đây có cá diếc kho? Từ ngày vào cung chỉ thèm mùi tanh của loài cá nơi thôn dã. Nem công, chả phượng Hinh chẳng ăn, ban cho, lúc đầu ăn ngon nhưng ăn mãi thấy nhạt.

Tiếng ngáy ngắt quãng. Hinh thập thò phía trong cửa ra hiệu hỏi vua có ngủ thật không? Tôi gật. Hinh rón rén vòng qua trước mặt vua ù chạy về phía cổng. Tiếng cười lanh lảnh. Mặt trời trên đầu khuất dạng. Mây đen kéo tới chờm kín.

Tôi vẫn quỳ. Sân gạch nóng ran. Bóng mát cây gạo đầu hồi không tỏa tới chỗ quỳ. Lá vẫn đều đặn rơi, một, hai, ba, bốn, năm lá… Đầu gối đỏ ửng, đau buốt. Mắt hoa lên. Cổ họng bỏng rát. Lá gạo vẫn cứ rơi trước mắt. Không đếm nữa. Vua vẫn ngủ. Thái giám vẫn mơ. Hinh bỏ đi chơi.

Tôi quỳ cho đến khi trước mắt chỉ còn khoảng sáng nhờ vàng. Vua, cây, thái giám, công chúa, rồng đá lẫn vào với nhau. Lịch sử mù mờ. Tỉnh thức là một. Ở quê bố mẹ hẳn đã quên tôi. Họ sống cuộc sống của riêng mình với vài thửa ruộng sứt sẹo. Hai thằng em khi vừa sinh ra đã học được cách chấp nhận cái chết. Chết vì đau bụng cũng không hèn nhát hay vinh quang hơn chết vì hòn tên, mũi đạn.

 

Ngày đi mẹ kéo vào buồng, dúi vội cho nắm xôi gấc đo đỏ, vo tròn, còn ấm. Bảo ăn đi. Cúng tổ tiên đấy. Chần chừ. Mẹ giục ăn nhanh lên đừng để hai thằng em mày nhìn thấy lại đòi. Một miệng ăn đã khổ lắm rồi đằng này ba miệng. Tôi cuống cuồng gặm. Nham nham nhở nhở. Nuốt chẳng kịp nhai. Xôi ngòn ngọt. Từ lúc sinh ra đến giờ chẳng có nhiều cơ hội được ăn ngon thế. Nhủ thầm cám ơn tổ tiên dù chẳng biết hình thù thế nào. Xôi dính hai bên mép.

“Ra rửa mặt mũi. Chốc người ta qua đưa đi.”

Giọng mẹ lạnh tanh. Mắt tôi ráo hoảnh. Tay lần hai bên mép nhặt nốt những hạt xôi còn xót lại đưa vào miệng nhai. Nhóp nhép. Nhóp nhép. Mười sáu tuổi vẫn mặc quần thủng đít ra đồng đi cấy. Người gầy dẹt như con đỉa phơi chín nắng. Ngực phẳng lì giống đứa trẻ lên mười. Mông không có gì ăn không nở nang. Gió thổi quần bay phần phật. Rau đưa vào bụng chỉ làm thân thể phát triển về chiều dài, không phát triển bề ngang. Chẳng có tí tình duyên nào trong cái làng chỉ cần lấy người về truyền giống và góp sức lao động với trâu ngựa.

Trong các bữa ăn bố bảo nhà này vô phúc sinh ra đứa không nhan sắc. Đũa bố khua trên đĩa sành cộc cộc. Bốn con cá diếc kho nằm chồng lên nhau, thân phủ dày rau má, giềng thái. Bố gắp cho hai đứa em. Rồi gắp cho mẹ. Con cuối thuộc bố. Tôi nhìn đĩa cá. Chỉ còn lại rau, giềng lót đáy nồi đen đen cùng màu xám nhờ nhờ của đĩa. Nhìn lên mái nhà. Cọng rơm khô đang rơi, nửa chừng mắc vào mạng nhện, bẻ ngang đường bay ánh mắt. Cái nhìn hẫng chạm đất lại đưa lên. Con nhện tong teo khua khoắng mấy cái chân tiến về phía cọng rơm.

Con nhện già rồi không phân biệt được đâu là thức ăn đâu là cọng rơm bố nhỉ ?

Ăn đi, nói lảm nhảm gì đấy. Già thì giết thịt chứ ăn uống gì. Đời này chỉ cần nhan sắc. Mẹ kiếp, cả cái nhà này sao chẳng ai nhan sắc?

Bố trừng mắt nhìn tôi. Tôi nhìn cọng rơm mắc tơ. Bố quay sang nhìn mẹ. Tôi thấy mẹ và miếng cơm thật to. Con cá nằm nguyên trong bát không xê dịch. Bố bao giờ cũng nhan sắc.

Nhan sắc quan trọng đến thế nơi trời Nam này ư?

Chẳng ai trả lời. Tôi chỉ thương con nhện. Quay đi quay lại hai đứa em đã ăn xong. Xương cá cũng không còn. Bố đứng dậy rót nước vối từ trong tích uống. Xúc miệng sùng sục nhổ toẹt xuống đất. Mẹ và nốt miếng cuối. Còn miếng đầu cá gắp nhanh sang bát tôi không để bố nhìn thấy. Cá diếc kho nhừ ăn đầu ngon hơn thân. Tôi ăn cơm không. Miếng cá để lại ăn cuối. Tanh lợm. Muốn nôn. Gắp thêm miếng giềng ăn độn vào nuốt đi. Muối mặn chát. Quáng quàng chạy ra ngoài. Cơm, cá, giềng trôi ộc ra.

Bụng rỗng hoác. Đất đen kịt. Bầu trời rất tím. Chân nhẹ bẫng. Xuôi về phía hồ tiếng sáo mơ hồ thoang thoảng. Mùi thơm ngọt của ổi chín phảng phất. Bình thường vào giữa trưa tiếng sáo không hất lên.

Tiếng sáo gọi tôi.

Tôi xuôi mãi. Cơn mơ xuôi mãi. Chim lanh lảnh hót, nhịp nhịp tươi vui. Lá trên cành xôn xao. Mặt trời chiếu xuyên qua kẽ lá thành muôn hình tròn to nhỏ nhảy múa, chờn vờn. Hàng vạn con mắt đang nhìn. Tôi chạy thật nhanh theo tiếng gọi.

Mặt hồ lấp lánh. Tôi ào xuống. Vục nước lên mặt. Nước mát lạnh. Đợi cho vô vàn vòng nước tan đi. Soi mình xuống. Vẫn là nhan sắc của ngày hôm qua, lúc này và ngày mai nữa. Đứa con gái không xinh đẹp sinh ra trong nhà nghèo thì chỉ có nước đi làm đứa ở cho người ta.

Tiếng sáo nhãng ra, tan đi.

Mày đừng tự lừa dối bản thân làm gì.

Làm đứa ở cho nhà danh giá còn hơn chán vạn lần làm ruộng…

 

Lâm ơi tỉnh dậy đi. Hinh biết lỗi rồi. Hinh đã cho thái giám đi gọi thái y nhưng mãi không ai đến.

Hinh lay tôi tỉnh dậy. Bóng tối phía ngoài chờm vào. Buổi chiều đã trôi qua. Vua Huệ Tông ngồi ở bàn trước mặt, ngủ gà ngủ gật, miệng nhai nhóp nhép. Nến soi bóng trên tường. Bóng chẳng giống bóng rồng.

Vị thái giám nghe tiếng Hinh gọi giật mình, mở mắt, nhìn quanh ngỡ ngàng rồi đứng dậy mở toang cửa sổ. Tiếng dế ri rỉ vọng vào. Trăng chênh chếch chiếu xiên qua tán lá. Gió lùa lạnh buốt. Tôi khẽ co mình. Chăn đắp trên ngực bị xô kéo xuống ngang bụng. Quá khứ đã qua đi. Lịch sử rất rõ ràng. Lịch sử không đứng về phía nhà Lý nữa. Huệ Tông, Hinh chỉ là những con cờ chậm chạp di chuyển những nước đi cuối.

Tôi nhắm nghiền mắt. Nước mắt chảy xuôi xuống gối. Tôi khóc cho hai cha con vua Huệ Tông. Ngày Hinh ra đời vua Huệ Tông bắt đầu chuỗi ngày dở điên dở dại. Thái úy Trần Tự Khánh nghi nghi ngờ ngờ. Hoàng hậu Trần Thị Dung hy sinh tình nghĩa vợ chồng, cắt đứt tình mẹ con vì lợi ích dòng họ.

Ơ, Lâm ơi, Lâm, tại sao Lâm khóc? Hinh làm Lâm đau à?

Hinh không lay nữa. Mười ngón tay nhỏ nhắn, hồng nhạt vuốt vuốt mái tóc dài, đen của tôi. Ngày đầu tiên vào cung tóc tôi ngắn choằn, xơ xác, vàng cháy như râu ngô. Người cung nữ già nua tắm rửa cho tôi khó chịu nhổ nước bọt mấy lần. Bộ quần áo cũ vứt chỏng chơ bên cạnh. Người ta còn chẳng thèm lau chân. Đó là bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất chỉ mặc mỗi dịp tết.

Và đâu chỉ có bộ quần áo cũ phải vứt đi.

Tôi biết tôi của ngày hôm qua phải nhường chỗ cho một tôi mới. Mất hết hồn nhiên, thiện tính, phải chấp nhận độc ác, thủ đoạn để tồn tại. Mùi bùn đất bám chặt bao năm phai nhạt. Nước nóng dội lên người rát rạt. Hai bàn tay nắm chắc. Răng cắn chặt. Không khóc. Người cứng đờ mặc cho vị cung nữ già vặn vẹo sao thì vặn.

Hoàng hậu Trần Thị Dung ngồi nhìn tôi qua bức rèm hồng nhạt. Bụng to vượt mặt. Hai người cung nữ đứng hầu hai bên có bộ mặt giống nhau. Thoáng buồn. Quạt đung đưa lên xuống. Không gian ngột ngạt. Người cung nữ già mặc cho tôi bộ quần áo mới rồi đẩy ra phía trước.

Tôi vẫn đứng im không đi.

Làm gì mà nghệt mặt ra thế.

Người ta kéo tôi ra, ấn quỳ xuống. Lời của Hoàng hậu Trần Thị Dung lẫn vào lời lịch sử. Tách biệt thế nào cũng vẫn giống nhau.

Mày gan lắm. Chọn được đứa như mày thật không dễ. Muốn làm nên nghiệp lớn phải có gan làm điều mà không ai dám làm. Cứ theo lời ta dặn rồi ta sẽ cho tất cả. Quyền lực, tiền bạc. Và chỗ đứng trong cái kinh đô nhiều mưu toan này.

Con dao bổ cau bén ngọt đích thân hoàng hậu trao.

Tôi cầm hết tay trái lại chuyển sang tay phải. Lòng bàn tay lạnh buốt. Nó được mài từ khi trăng khuyết đến khi trăng tròn. Tiếng quèn quẹt đều đặn vang lên mỗi đêm từ căn nhà cách xa tẩm cung hoàng hậu. Người cung nữ già vẫn sáng sớm vào cung, tối muộn về ngủ. Nét mặt thản nhiên. Tôi biết khi nào bà ta về giữa buổi công việc của tôi sẽ tới. Con dao trong thời gian ấy phải trở thành một phần máu thịt. Vung lên, hạ xuống nhanh gọn. Không mảy may đắn đo.

… nếu nó là con trai.

Tôi nhận mọi tội lỗi. Tru di cửu tộc. Xuất hiện trong chính sử bên cạnh Đỗ Thích, người hành thích vua Đinh Tiên Hoàng và con trai cả Đinh Liễn.

Anh hùng của họ Trần?

Tội đồ của họ Lý?

Bố mẹ tôi cùng hai đứa em tôi liệu có tự hào về đứa con không nhan sắc của mình? Nó đã làm một việc lớn. Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng thất bại chết không toàn thây, thành anh hùng của điều không thể. Tôi giết đứa bé trai vừa mới chào đời, tôi thành tiểu nhân của điều có thể.

Giờ này trong cung hẳn tất cả đã sẵn sàng. Chỉ chờ hoàng hậu lâm bồn. Tôi được gọi tới. Tiếng khóc chói tai đồng thời là tiếng trăn trối xé nát quãng ngày đằng đẵng thấp thỏm. Nó không có số làm thiên tử. Vua Huệ Tông điên điên dại dại lúc nào cũng “ta đây là tướng nhà trời/ hôm nay giáng thế cho người sợ oai” bị giữ ở ngoài thành. Khi về thì mọi việc đã rồi. Người mẹ họ Trần chối bỏ giọt máu họ Lý. Thái úy Trần Tự Khánh đi đi lại lại chưa hài lòng với toan tính của mình. Tiếng bước chân lạch bạch gõ xuống nền thúc giục.

… nếu nó là con trai.

Người cung nữ già dằn ngửa đứa bé đỏ hỏn ra. Con dao bổ cau được dùng đến. Một nhát cứa ngang, đằm, nhấn hết sức. Máu bắn lên, loài hoa mang mùi tanh nở bùng. Tiếng khóc lặng thinh. Máu đỏ ối phủ kín những trang cuối cùng trong lịch sử nhà Lý. Quân lính phía ngoài được lệnh thái úy ùa vào. Đầu kẻ phản nghịch bị chặt phăng, treo trước cổng kinh thành.

Giết một sinh mạng có dễ dàng như giết con gián, con chuột?

Cái viễn cảnh tưởng tượng trong chuỗi ngày sắp tới diễn đi diễn lại. Tôi nhiều lần thử dao trên tay mình. Dao bén ngọt. Sẹo theo ngày tháng nối nhau chằng chịt. Người cung nữ già vẫn đi, về.

 

Tôi ú ớ dứt khỏi kí ức.

Phụ hoàng ơi dậy xem Lâm của con làm sao ấy?

Hinh kéo tay vua Huệ Tông. Vua uể oải miễn cưỡng đứng dậy, vẻ mặt mệt mỏi. Vệt đen của tro còn dính lại trên trán. Vị thái giám ngủ ngồi trong góc nhà, hai tay bó chặt đầu gối, đầu gục xuống. Bức tường bên cạnh xám xịt. Tóc trên đầu tuột ra rủ xuống đung đưa theo gió từ ngoài thổi vào. Con thạch sùng tặc lưỡi tàn canh. Đêm vẫn đang trượt dài trên con đường chuyển dịch về sáng. Thiêu thân lao vào nến nổ lép bép.

Tôi cuống cuồng lật chăn, nhảy vội xuống hành lễ.

Vua Huệ Tông nhìn. Cái nhìn sắc, lạnh.

Ta thấy ngươi quen.

Hạ thần là người được hoàng hậu đưa đến chăm sóc công chúa từ nhỏ.

Ngươi mệt đứng dậy đi.

Hạ thần không dám.

Ta bảo đứng dậy. Ngươi đã quỳ cả buổi chiều rồi. Ta biết. Ở kinh thành này đâu còn ai quỳ trước ta lâu thế nữa. Con dân của ta bỏ ta hết rồi. Họ chờ một cuộc chuyển ngôi mới.

Bệ hạ đừng nói thế, xin người yên lòng.

Yên lòng ư. Muộn rồi.

Vua Huệ Tông xoa đầu Hinh rồi quay lưng bước những bước dài về phía cửa. Đêm dày cô độc. Vị thái giám vẫn say giấc. Thêm một lần ngắn ngủi nữa vị vua thứ tám của dòng họ Lý được tỉnh táo. Lần tỉnh táo cuối cùng của ông là cuộc gặp thái sư Trần Thủ Độ khi đang nhổ cỏ ở chùa Chân Giáo.

 

…Nếu nó là con gái, nó sẽ được sống.

nhưng tôi tin nỗi đau nó phải mang còn hơn một vết cứa nơi yết hầu.

 

Kiến Gia năm thứ 8, Mậu Dần, tháng chín.

Thời tiết chuyển từ hè sang thu. Da trời xanh ngắt. Ít gió. Vài tảng mây thay đổi liên tục hình thù lững thững di chuyển chậm chạp từ phía tây sang đông. Không gian oi ả, ngột ngạt. Nắng vàng nhưng không trong vắt giống mọi ngày mà đùng đục. Lúc ấy vừa chớm ngọ. Tiếng trống báo canh được đánh lên chưa lâu. Tôi vẫn đang mài dao ngoài giếng nước. Người cung nữ già đi từ lúc sáng sớm chạy về. Nét mặt hớt hải, tái mét, vấp ngã ở bậc cửa. Trán đập xuống đất sưng vều rớm máu. Giọng khàn khàn.

Lâm ơi Lâm. Mày ở đâu ra đây ngay.

Tôi biết việc mình mong đợi đã đến. Hai tay tôi lúc ấy có tổng cộng bao nhiêu vết cắt tôi không đếm hết. Vết nọ chằng vết kia. Vết mới rớm máu xen vết cũ đã mọc da non. Mỗi lúc mềm yếu tôi lại tự cắt da thịt để cảm thấy mạnh mẽ. Niềm đau thể xác là một xác tín khó tả. Người cung nữ già chưa bao giờ ngăn tôi lại. Tôi biết, bà còn ngầm ủng hộ hành động ấy. Nó chứng minh tôi có thể làm tất cả mọi thứ để đạt được mục đích, kể cả hủy hoại bản thân.

Mím răng, bặm môi, không nhìn. Vết cắt thử cuối cùng loang máu. Khung trời cũ hiện lên. Tôi trở lại hồ nước quê nhà, tiếng sáo mơ hồ vẳng đến. Bên kia hồ có bóng người. Cố nheo mắt nhìn, bóng mờ mờ. Cặp mắt sâu thẳm buông là là mặt nước buồn thảm rồi chìm dần xuống đáy.

Buông tay áo đứng dậy, vừa đi vừa quệt lưỡi dao vào quần cho khô.

Thái úy, hoàng hậu cần có một kẻ gan dạ, không liên quan gì đến mình giúp làm việc lớn. Những bước đi đầu tiên cực kì quan trọng. Ngươi phải lấy thế làm vinh dự. Đừng sợ hãi.

Kiến Gia năm thứ 8, Mậu Dần, tháng chín. Chẳng có cái chết nào xảy ra. Kinh thành nhộn nhịp, giăng đèn kết hoa.

Vị thái giám tỉnh dậy thì vua Huệ Tông đã đi từ rất lâu.

Hinh ngủ. Mái tóc dài đen nhánh buông mãi về phía đêm.

 

Ngày Trần Cảnh tám tuổi vào cung làm chánh thủ hầu hạ Hinh, tôi được lệnh điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ về lại cung hoàng hậu.

Giữa trưa tôi đi, bên gốc gạo gai đầu hồi Hinh hỏi xin một vật. Tôi hỏi vật gì? Hinh bảo con dao bổ cau vẫn để dưới gối. Tôi hỏi làm gì. Hinh không nói. Ánh mắt dừng lại nơi bắp tay. Tôi biết. Hinh có những nỗi đau khó có người bình thường nào chịu nổi. Tôi cũng biết những vết cắt của Hinh rồi đây còn nhiều, sâu hơn tôi. Tôi im lặng đưa dao cho Hinh. Hinh cất vào tay áo. Tuổi thứ sáu thành tuổi mười sáu. Hinh không còn trẻ con.

Đằng đông có cơn mưa.

Hinh giục tôi đi nhanh không ướt. Tôi chần chừ. Hinh giục lần nữa. Ngoảnh đi ngoảnh lại mặt trời đã bị nuốt chửng. Mây phủ đầy trời, đen kịt. Gió lạnh thốc tới thổi tung lá khô, cát bụi. Long bào vàng rộm rộng hoác bay phần phật. Sấm động đì đùng. Lắc rắc vài hạt mưa rơi. Hinh giục thêm lần nữa. Tôi bảo tôi không đi nữa. Tôi ở mãi với Hinh, đời này, kiếp này để không ai có thể ức hiếp, bắt nạt. Hinh bảo vậy thì cùng chết dưới cơn mưa để máu tưới đẫm hoàng cung. Cho mọi người biết nhà Lý chưa bao giờ hèn yếu, phụ thuộc. Con dao huơ lên cao. Tôi lao tới ôm Hinh. Long bào rộng quá, ôm mãi không hết. Con dao cắm phập vào lưng tôi. Máu hòa mưa loang đỏ khoảng rộng dưới chân. Hinh bật khóc, mím môi, rút dao ra định đâm vào người. Tôi giằng dao vứt ra xa. Máu trên lưng ri rỉ chảy. Một tay chống cây gạo gai, một tay ôm Hinh. Mưa trắng xóa trời. Kinh thành Thăng Long ngập nước.

Con rồng ngày vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long nhìn thấy từ trên trời cao bay vút xuống hòa cùng đất lạnh. Ánh mắt buồn bã. Cơn mưa giã nát vẩy rồng còn lưu lại trên đất.

Trần Cảnh đứng từ trong nhà nhìn ra câm lặng. Cảnh biết rồi sẽ có ngày con dao kia sẽ đắn đo nơi yết hầu mình. Cảnh chấp nhận. Dòng họ Cảnh nợ Chiêu Hoàng một ngôi báu. Một mối thù giết cha. Một mối thù dòng họ. Cảnh không thể trả hết trong kiếp này.

Cơn mưa chưa dứt.

Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ cùng hoàng hậu Trần Thị Dung buông trần những giọt mưa lên người. Mưa uyển chuyển chảy từ góc này sang góc khác trong căn phòng rộng. Lúc cuống lên chảy nhanh, mạnh, lúc lại chậm chạp, kéo dài. Thời gian trộn lẫn vào mưa.

Người cung nữ già đứng nơi cửa vén tay mình lên. Vô vàn vết sẹo lồi lõm, chằng chịt. Bà không nhớ đã tự cứa vào tay bao lần?

Cơn mưa rất cũ.

Nơi chùa Bút Tháp, Huệ Quang đại sư và vua Lý Huệ Tông ngồi cạnh nhau. Một bóng, một hình. Trên tay một rượu, một trà. Mưa theo vệt nứt nơi ngói rỏ xuống. Chạm vào Huệ Quang thành kí ức của ngày tháng cũ. Chạm vào vua Huệ Tông thành những ngày trước mặt. Rơi vào cốc trà, cốc trà bớt đắng. Rơi vào rượu, rượu bớt nồng. Bóng và hình đưa rượu, chè lên môi nhấp. Chẳng có mùi vị gì. Chỉ nhàn nhạt trôi xuống.

Cơn mưa từ ngày xửa ngày xưa.

Vị thái giám có cặp mắt đen láy, sâu thăm thẳm đứng giữa kinh thành. Ngựa xe lại qua nhộn nhịp. Tường Phù cửa Đông, Quảng Phúc cửa Tây, Đại Hưng cửa Nam, Diệu Đức cửa Bắc. Mưa ngày xưa không chọn được con đường đi cho những ngày tháng triền miên sẽ cũ. Buồn bã rút trong tay nải ra cây sáo trúc đưa lên thổi. Sâm cầm bay qua ngập ngừng dừng cánh. Nhan sắc ít ỏi rơi lả tả bên hồ.

Bố mẹ cùng hai em trai không biết đến cơn mưa…

 

Kinh thành Thăng Long một sáng tháng Chạp. Cái lạnh cuối đông thấu tận gan phổi. Sương vương ướt mái tóc điểm bạc. Chẳng còn lá gạo. Tôi lặng lẽ vun kí ức lại đốt. Lửa âm ỉ cháy. Lúc vàng lúc đỏ.

 

Đ.P

 

 

CAO NGUYỆT NGUYÊN (HÀ NỘI)

NÚI MÂY VÀ BỒ CÂU XÁM

 

Truyện ngắn Cao Nguyệt Nguyên

 

Súa về thấy nhà trống trơn, vụn cám ngô vương vãi, những sợi dây chuối tước năm tước bảy còn sót lại rối tinh rối mù ở sân. Nhìn lên ngọn cây biêng biêng, thấy những chiếc chuồng chim trống hoác. Vứt bó le le xuống đất, Súa chạy vội đi, vừa chạy vừa quệt nước mắt. Không phải vì thương đâu, mà là Súa tức, càng tức càng thấy nước mắt giàn giụa chảy ra. Đưa tay quệt không kịp, nước thành dòng tràn cả vào khóe miệng đắng ngắt. Bảo rồi không nghe, lần này về, Súa sẽ trói Dín lại, trói thật chặt bằng sợi dây mây, bằng dây rừng vào cột nhà. Thà làm vậy còn hơn.

Lội qua một đám sương, chiều non mà đã không thấy mặt người. Chỉ thấy tiếng Dín cười lẫn vào tiếng chuông khê nồng, vọng lun lút sau vách tường đá ong rêu rêu nhựa, lạc lõng, ma quái. Rồi Súa đứng như trời trồng dưới chân dốc. Kia, con em trời đánh. Tay vừa vét cám vừa nâng nâng diều những con bồ câu còn xanh sữa, người ta lắc đầu. Đáng bao nhiêu mà nhét? Một gã đàn ông hiếu kỳ ngồi xổm xem Dín dồi cám cho bồ câu. Này, hỏi thật, có được dăm lạng không, nếu được, đây mua tất. Rồi đưa tay luồn sâu vào làn áo cánh mỏng. Dín nhe răng cười. Hê hê. Thế này thì quá lắm. Cái đảo mây này quanh năm động dục, ướt át, mơ màng, chẳng nhẽ sống lâu với nó quá giờ đến lượt Dín cũng bị nhiễm? Súa không nói không rằng, bước đến, đá tung chiếc vỏ dừa khô còn lưng lưng cám, móng chân cô bật máu. Súa mím môi cố nén cơn giận đang phừng phừng trào lên trong lồng ngực. Dín so người lại ghì lấy con bồ câu. Gã đàn ông vội vàng lủi ra, bước vào nhà thờ làm lễ thánh. Súa quấn chặt tóc Dín vào cánh tay mà lôi đi, mặc kệ đôi chân không kịp bước. Mồm Dín sều bọt phát ra những tiếng ư ử đầy uất hận, bàn tay đấm thùm thụp vào ngực Súa. Hai chị em lôi nhau băng qua vườn đỗ quyên, hoa rệu rạo sau đợt sương muối.

*

* *

Hai người đàn bà quá lứa ấy sống bên kia đảo mây, chẳng mấy khi đi xuống làng. Cũng vào mùa đất giời động dục họ kéo nhau lên, tay gậy tay bị, quần áo rách bươm, nhìn ai mắt cũng lừ lừ như căm giận. Người ở cái xứ sở này vốn kín tiếng, việc ai người ấy làm, ngày cũng như đêm lẩn vào với sương khói, trả lại cho núi rừng sự cô tịch, hoang sơ đến rợn gáy. Thế mà ai cũng biết chị em nhà họ Vừ. Tên giả đấy, tiếng Kinh nói sõi lắm, cầm dao quắm phát ngược, chân trắng như sứ, không phải gái Mông đâu.

Thì đúng là chị em Súa chẳng phải người bản xứ thật. Chị em Súa dắt díu nhau lên đảo mới được mười năm, sau lần Súa sẩy tiếp đứa con thứ ba. Từ phòng hậu sản chị em Súa đưa nhau lên đồi Trảy, trên dốc gió người đàn bà ngồi bất động bên nấm mồ mới đắp, tóc xõa theo gió nhìn rất sợ. Dín lay vai mấy lần Súa mới mấp máy môi. Chôn xong rồi, ba đứa con của tôi. Chôn luôn cả đời tôi xuống đấy.

Nhà có ba người, từ hôm Súa về bố tự chuyển xuống gian bếp nhường lại khoảng gian trên cho hai chị em. Bố ít nói hơn, thỉnh thoảng lại ngồi uống rượu suông. Mắt mờ đục. Ai cũng trốn tránh không nhắc đến chuyện buồn, chuyện về những đứa trẻ nằm trên đồi Trảy. Một đêm, bố chong đèn ngồi lau những chiếc huy chương trong chiếc hộp khảm cũ kỹ, rồi lặng lẽ đeo lên ngực. Màu lấp lánh khuất dần trong đêm. Bố đi. Hai chị em không giữ được. Đừng cản, bố phải đi làm cái việc trước khi nhắm mắt…

Mấy hôm sau, Dín ngồi bên hông nhà lặng lẽ nghe thấy hết, vừa tức vừa thương chị, chồng Súa sang, xách theo nhiều thứ lắm. Nào chân giò nấu nghệ; trứng hầm ngải cứu; thịt gà tần thuốc bắc, nào cam, nào chuối chật cả một mâm, phô bày sự đầy đủ, chu đáo, quan tâm của người chồng. Duy chỉ có mắt Duật dáo dác nhìn vợ. Súa cố gắng ăn hết bát gà tần, ăn ngon lành từng miếng, thỉnh thoảng nhìn Duật, nụ cười méo mó, nước mắt chực vỡ ra. Duật đứng dậy định bước ra khỏi buồng thì Súa níu lại, tay Súa lạnh ngắt. Ngồi lại với em một tý đã. Duật ừ, nhẹ hơn tiếng gió. Duật bóc cam cho vợ, xoay vòng, xoay vòng luống cuống đến nát, nước cam thấm ra tay. Con gái hay con trai? Tiếng lạc đi. Súa ngẩn người một lúc. Con trai. Bao giờ anh cưới? Im lặng, hai bàn tay vò vào nhau, một thoáng rồi Duật về. Dín bảo ngữ đàn ông ấy không phải tiếc. Có yêu thương gì mình đâu. Súa ôm ghì chiếc gối vào lòng. Tao không biết đẻ. Hứa rồi, lần này không thành, tao sẽ để Duật tìm người khác, anh ấy là con một. Cái số hai đứa mình vậy. Không phải tại bố. Cũng không phải tại mình, tại ông giời. Khóc làm gì. Nói với Dín thế nhưng Súa vẫn ôm lấy thắt lưng Dín mà khóc, khóc ròng rã mấy tiếng đồng hồ rồi ngưng hẳn, từ ấy ít khi thấy nước mắt Súa rơi nữa.

Thỉnh thoảng Súa lại trốn đi, nửa đêm về ướt sũng, tay lạnh ngắt sương, dụi đầu vào vách tường chờ trời sáng. Dín không hỏi, cứ lặng lẽ rồi sẽ qua. Đàn bà là vậy. Dín cũng âm thầm lấp đầy những nỗi đau của mình, Dín sẽ không bao giờ gặp lại Tuấn nữa, người đàn ông của cô. Tuấn ấm áp và bao dung quá lại vô hình làm Dín thấy sợ. Mỗi lần nằm bên Tuấn, nâng niu nhau, mà đêm nào Dín cũng mơ, thấy những hình hài thiếu hụt, thấy những tiếng cười trong vắt đầy nước mắt. Biết rằng ích kỷ nhưng Dín vẫn bảo Tuấn chờ, hết dạo tháng ba, nếu chị Súa đẻ được đứa con lành lặn thì Dín sẽ theo Tuấn về chung một nhà. Nhưng chẳng bao giờ được. Súa đẻ rồi, Súa sẩy, ba cái hình hài méo mó như nhau, kỳ dị như một lời nguyền rủa.

Một đêm, Súa nằm áp ngực vào lưng Dín, thấy hơi nóng giẫy. Bao giờ cưới? Dín khẽ thở dài thay cho lời đáp. Tao ngẫm rồi, chẳng ra sao đâu Dín ợ. Hai chị em mình đời cũng như nhau thôi. Nếu tao đi, mày đi cùng hay ở lại? Dín đưa tay siết lấy ngực mình. Chị đi đâu thì cho em theo với. Hai người đàn bà lặng thinh.

Ngày sắp mất, bố dúi vào tay Súa tập hồ sơ, chứng nhận nhiễm chất độc da cam. Bố bảo sau này con cháu không bị thiệt thòi. Những ngày cuối đời bố bán hết gia sản, đàn trâu, mấy sào ruộng chân chua, bán ngay cả những chiếc gàu sòng chỉ đáng dăm ba xu. Bố lên phố, day dứt đến gầy người. Bố bảo Dín, đàn bà là phải đẻ, phải có con cho vui cửa vui nhà… Nhỡ nó không phải là người thì sao? Dín buột miệng nói lỡ, vội đưa tay bóp chặt miệng mình. Súa bảo chẳng cần thế, tao với mày lành lặn là may rồi. Sống với nhau cho hết kiếp đi, nghĩ xa xôi làm gì cho mệt.

Trước ngày lên đảo, Súa dắt Dín ra mộ bố. Chậm rãi châm hương, chậm rãi bật lửa rồi đốt từng tờ giấy. Ưu đãi ư? Thành vô nghĩa hết rồi bố ơi…

Hai chị em quẩn quanh với mây trong căn nhà lá. Dưới kia và trên này, hai thế giới hoàn toàn khác biệt. Chẳng ai bảo ai nhưng chuyện quá khứ không còn nhắc đến nữa, dè chừng từng lời nói, mà tính Dín thì ruột để ngoài da sợ lỡ lời nên thường im lặng. Mỗi ngày, Súa trồng thêm quanh nhà một cây biêng biêng, thân thẳng đứng, cành đan vào nhau như mắc cửi. Thỉnh thoảng có người dưới bản đi ngang qua, nghe thấy tiếng ríu rít gọi nhau, mắt Dín rực lên, môi mấp máy. Súa lại vác dao thức cả đêm để trồng thêm cây trên những lối mòn. Dín giằng lấy chiếc dao trên tay Súa, khẽ lắc đầu. Không phải trồng nữa, Dín chẳng bao giờ xuống làng đâu.

Bây giờ, những cây biêng biêng lớn, đảo mây thành một tấm thảm xanh, giăng kín như tơ nhện, Súa tưởng đã yên tâm. Súa mừng thầm trong bụng. Thế mà người bản vẫn lên đây được. Giọng Dín thảng thốt. Anh Tuấn, Súa ơi, hình như là anh Tuấn. Súa đứng trên ngọn biêng biêng sững người nhìn dáng Dín mờ dần mờ dần trong mây, chạy theo tiếng người đàn ông xa lạ. Gần sáng Dín về, tóc rũ rượi, đi thẳng đến mé bếp xòe váy hong lửa, sương đọng thành giọt trên mi mắt. Ai? Súa từ cửa bước vào, đêm qua Súa cũng không ngủ chờ Dín mà ruột thắt lại. Không phải. Chỉ giống thôi. Giống quá… Dín thở dài.

*

* *

Đàn bà ngồi với đàn bà giữa sương thì chỉ thấy nước mắt, mây với sương bồng bềnh đến thắt lưng người. Dín vừa khóc vừa cố giằng ra khỏi những vòng dây thít chặt. Súa hứ một tiếng dài rồi rót rượu ra bát tu ừng ực, mùi men bay khắp nhà, nếp áo, nếp khăn cái nhà này giờ om bằng rượu. Súa lừ mắt nhìn Dín. Bồ câu của ai? Của Súa. Ai cho mày bắt đi bán? Kinh rồi, từ giờ tôi không dám nữa. Súa đi vòng quanh Dín nhìn mãi vào hõm ngực căng tức của cô rồi nhớ đến cái sộc tay vội vã của gã đàn ông thô tục hồi chiều. Đĩ. Súa lại hứ lên một tiếng nữa.

Súa nhìn Dín rồi nhìn ra phía lưng chừng trời nơi những hàng cây biêng biêng khô cằn vẫn âm thầm khoe hương sắc. Mùa đất giời động dục, xung quanh đảo mây trên những cành cây khô cằn hoa biêng biêng vẫn nở rộ trong mưa, đâm bông trắng xóa, hương thơm ngát. Nhất là về đêm hương hoa như thể được cô đậm lại, ngào ngạt, thẩm thấu vào giấc ngủ thêu dệt nên những ám ảnh khoái lạc đê mê. Buổi sáng thức dậy hương hoa dẫu nhạt nhiều nhưng cả Súa và Dín đều thấy âm ỉ trong lòng một nỗi buồn chìm đắm vô tận.

Hết độ tháng ba, đào non rụng rốn, sương tan, hoa biêng biêng tàn. Mày còn nhớ tao đã nói gì không hử Dín, tao đã bảo sao? Dín gật đầu chẳng biết vì nhớ hay vì sợ đau. Súa cởi chiếc khăn trên cổ vắt lên gác bếp, chệnh choạng đến chiếc lồng tre méo mó cởi từng sợi dây, được phóng sinh, lũ chim hỗn loạn đập cánh bay lên đâm đầu vào thân cây rơi xuống. Có những con chim non bị dồi cám đến rách cả miệng đã chết lạnh ngắt trong lồng. Súa bới những hố đất nông choèn sau vách chôn xuống.

Lúc vào nhà đi ngang qua chỗ Dín, cổ Dín ngoẹo sang một bên, tóc sổ tung, từng mạch máu xanh xao vằn vện ngang dọc trên chiếc cổ cao ba ngấn gầy guộc. Bụng Dín phập phồng. Hình như có cái gì đó bất bình thường. Súa cúi đầu, dụi mắt, đưa tay vô thức vốc từng vốc sương quanh bụng Dín ra. Vòm bụng tròn tròn lộ.

- À, giỏi lắm. Cái này là cái gì? Mày chỉ là giống cái mà thôi.

Súa gào lên khiến Dín giật mình. Như nhận ra cái nhìn kinh tởm của Súa, Dín cúi xuống gò bụng phập phồng. Dín cúi mặt, nước mắt lưng tròng. Súa thấy mình cay cực quá. Ra hơn mười năm nay thành công cốc hết. Ở dưới xuôi hay kéo nhau lên nóc trời này, có khác gì nhau? Mây không che khuất được mắt Dín, sương không đủ lạnh để bóp nghẹt những cơn căng tức của bầu ngực Dín.

- Không nhịn được thì theo tao lên đây làm gì?

Vậy thì Vừ Thị Dín hay Trần Lệ Đỗ Quyên có khác gì nhau. Súa dựa lưng vào cột nhà, dốc dốc những giọt cuối cùng đắng ngắt. Mắt Súa đanh lại. Từ từ rót thứ nước sánh đặc trong lu đất ra giơ lên trước mặt Dín. Dín so vai, hai hàm răng cắn chặt, môi ri rỉ máu. Uống đi. Súa quát, tay cô khẽ run làm bát nước sánh ra ngoài. Mày quên ba nấm mồ con tao trên đồi Trảy rồi ư? Trót dại với ai hử Dín? Dín ngửa mặt lên trời, nhìn lên những lụn mây trên đỉnh ngọn biêng biêng. Chẳng có nhẽ với mây à? Với giời à? Dín lắc đầu. Từ giờ đến sáng, mày phải uống, để sáng mai nó ra. Một ngày nào đó, tất cả các sinh linh sẽ cười mà đội ơn Súa đã để chúng trở về với đất. Về với đất bình yên hơn làm người mà không phải là người. Rượu nóng hầm hập mà Súa thấy mình lạnh buốt. Súa mường tượng đâu đây những tiếng khóc vang lên dưới vực thẳm, trườn qua mây, cứ vấn vít vấn vít. Ở đảo mây này không có đàn ông, hay trẻ nhỏ. Bây giờ còn khao khát làm gì? Bỏ đi. Có trót dại thì bỏ đi.

Súa đứng trước mặt Dín, lặng lẽ trút hết lớp áo. Trăng ở đảo mây khiến da thịt Súa diệu vợi, Súa bước ra giữa trời. Mặc kệ tòa thiên nhiên lộng lẫy hứng những đợt sương lạnh vã tới tấp trên da thịt, mái tóc phủ trắng xóa. Dín len lén nhìn ra. Thấy Súa đứng như tạc tượng, như không còn hồn nữa. Dín bật khóc. Súa bảo Dín là giống cái đây mà. Súa cũng thèm đàn ông chứ, Súa còn đẹp mà.

Trăng, chỉ ngồi dưới đêm trăng người đàn bà mới biết mình đẹp, mới cần ấp ủ, mới khát khao. Mỗi lần Súa lặng lẽ trở dậy, lặng lẽ phơi mình dưới sương là trong nhà Dín ôm mặt khóc. Súa bảo lên đảo mây rồi, thay tên đổi họ khác, thì quên chuyện cũ đi. Nói vậy nhưng Dín không làm được, càng cố quên càng chát đắng. Những đứa trẻ vẫn trở về bên Dín luôn luôn, đêm nào cũng úp đầu lên ngực cô mà mút mát. Dín muốn làm mẹ dù thế nào đi nữa.

Dạo này Dín hay mơ thấy Tuấn, thấy những cuộc hoan lạc thoáng qua chìm lẩn trong mùi hoa biêng biêng mê mị. Đêm, tay Tuấn to bè mà ấm áp chụp bắt đom đóm của đêm thả vào ngực Dín. Tuấn bảo mình cưới nhau đi, em tính cứ thế này mãi à? Dín lặng im. Nếu Tuấn biết Dín sẽ chẳng bao giờ làm mẹ, chẳng bao giờ sinh được cho Tuấn những đứa con lành lặn, liệu rằng Tuấn có còn yêu và muốn cưới? Tuấn bắt thêm vài ba đốm sáng lập lòe, lập lòe bỏ vào trong Dín, chờ đợi. Mình chỉ yêu thôi... Dín trả lời rồi đứng dậy, khẽ rũ người, ngàn vạn đốm sáng òa ra nơi bầu vú, Dín lặng lẽ đi vào đêm. Bỏ mặc Tuấn ngồi chênh chao đến sáng.

Suốt ngày, Súa quẩn quanh với những con bồ câu xanh xám, những ngọn cây biêng biêng vô hồn. Súa phóng sinh chúng vì những điều cao thượng mà chẳng hiểu cho Dín. Vậy thì Dín sẽ không để Súa phóng sinh lũ bồ câu, chúng phải ở lại, phải đau đớn cùng Dín, có cánh mà chẳng bay được lên bầu trời cao vợi, phải nặng nề mang một nỗi đau vô tận vào lòng. Thế là khi Súa vừa đi khỏi nhà, Dín lại trèo lên ngọn biêng biêng chụp bắt những con bồ câu xuống đất, nhét căng đầy cám. Dín ngồi bán những con bồ câu xanh xám dưới chân nhà thờ, mắt như cô hồn ngước lên nhìn Đức Mẹ.

Đàn bà thời xưa bảo nhau, nhịn được thì cố mà nhịn đi. Súa cũng bảo Dín như thế. Súa chẳng đủ lý lẽ để khuyên em. Nhưng Súa nhìn thấy được, rồi đây những đứa trẻ mang khuôn mặt quỷ sẽ ra đời, sẽ lạc loài trong cõi đời này, sẽ cay đắng, rồi đời chúng, con chúng sẽ ra sao? Chiến tranh đã qua, nó là từ cái thời của bố, Súa chẳng quan tâm. Nhưng cô chỉ biết ngày hôm nay mình khổ, em mình khổ vậy thì… để nó kết thúc ở cuộc đời hai chị em đi.

Súa vẫn nhớ bữa cơm chiều lạnh ngắt. Súa đi ra đi vào chờ đợi, đợi được xới cơm cho chồng như mọi bận. Duật vẫn ngồi ngoài ngõ, dựa lưng vào gốc cây xà cừ uống rượu khan.

- Nhà này vô phúc.

Mẹ chồng ngồi trước cửa thỉnh thoảng lại xói vào mấy câu cay độc. Súa thắt ruột nhìn ra phía chồng, nhìn mẹ chồng rồi nhìn xuống mâm cơm lặng lẽ quệt nước mắt.

- Chị tính thế nào thì tính, đừng để dòng họ này không có người châm nhang. Nếu không tính được thì để thân già này tính hộ.

Súa tức tưởi chạy đi. Đường hun hút. Chỉ vài lá ngón thôi, thì đời ơi, cha mẹ ơi, Súa chẳng còn thiết nữa.

- Có chết thì chết sau bố, đừng để bố buồn. Định bỏ lại Dín trên đời này à? Không sống được ở bên ấy thì về nhà mình, sao mà phải chết.

Hai người đàn bà trên đồi Trảy, trong tay những lá ngón dập nát thấm đầy nước mắt.

Ngày cất bước ra đi, bên nhà chồng một chặp pháo giấy nổ chát chúa. Dín biết ý khép cửa cho chị, khép cả cửa buồng nhưng âm thanh ấy vẫn đọng lại trong đầu. Chồng Súa lấy vợ. Cả đêm ấy, Súa cười ngây dại. Những nỗi cay cực ấy Súa đã nếm trải, một mình Súa chịu đựng là đủ rồi cô không muốn đứa em đi vào vết chân cũ.

Còn Dín, Dín đã bỏ được Tuấn kia mà, sao giờ lại khao khát thế. Dín muốn gần người hơn ư, muốn tìm lạc thú dưới chân nhà thờ đá, cứ vục đầu ngủ gục suốt đêm ở đấy làm gì. Có bao giờ không ấp ôm nhau, không làm tình mà vẫn đẻ? Thỉnh thoảng Dín vẫn hỏi thế. Mắt Dín nhìn xoáy xuống chân mây, nơi tiếng chuông văng vẳng như tiếng cô hồn thỉnh thoảng lại vọng lên.

Uống đi. Chiếc bát sành ghì sát miệng, một vài giọt máu nhểu nhảo từ môi hòa vào nước. Đường rừng có mây và cây biêng biêng chắn lối, thế mà sao Dín vẫn trốn đi xuống làng được.

- Tôi không ngủ với ai cả.

- Thế tự dưng bụng to lên à?

- Đức Mẹ cũng đâu có ngủ với ai.

A ha, nó lại còn tìm được cái cớ để đẩy đưa. Nếu chị em Súa mà sống dưới làng, sẽ bị cả xóm đạo cột vào cây, ném đá. Bọn ngoại đạo, với những lời bẩn thỉu làm ô uế. Sao nó không tìm cái cớ gì khác để chối tội, thà cứ khóc để Súa thương, mủi lòng mà gật đầu tặc lưỡi. Đằng này…

- Chị cứ ở lại sống với lũ bồ câu đi, mặc thây tôi.

Dín vục mặt cắn sợi dây đứt tung lao xuống đảo mây, vừa chạy vừa nấc. Súa chỉ kịp rú lên một tiếng rồi hất tung bát nước lên trời. Hai người đàn bà đuổi nhau giữa đêm cùng với tiếng hú dài thê thảm…

*

* *

Người ta xéo nát những bông đỗ quyên buổi chiều khi chen nhau băng qua sườn núi, mùi nhựa hoa hăng hắc trải dài thành từng thảm đỏ au. Dín rệu rạo lê từng bước lên gờ đá ong trơn trượt, ngước vọng lên trên, bức tượng Đức Mẹ đồng trinh đứng chơ vơ giữa ngôi đền. Đôi mắt bức tượng nhìn thẳng ra phía bạt ngàn mây.

Ơ mẹ, mẹ nhìn cái gì ngoài ấy thế, chỉ có mây thôi, sao mẹ không cúi xuống nhìn con hử mẹ? Con không phải là Dín, con là Đỗ Quyên mẹ ạ. Một tý nữa thôi, chị con sẽ đến lôi con về. Sẽ cho con uống thuốc, rồi nó sẽ ra. Mà chẳng biết ngày xưa mẹ có bị người ta ép uổng thế? Lúc tối Súa đánh con, bảo chửa với ai. Súa cười, Súa không tin mẹ ạ. Mẹ có ngủ với ai đâu mà vẫn có chửa, vẫn đẻ đấy thôi. Con cũng chẳng ngủ với ai đâu mẹ ạ. Con có chửa với đảo mây này. Mẹ con mình giống nhau. Sao đàn bà cay đắng...

Con của Dín sau này sẽ mang hình hài của núi, của đảo mây, Dín chỉ là người mang hộ. Giống như trước đây Đức Chúa Cha và Chúa Thánh Thần mang Chúa Giêsu gửi vào bụng mẹ. Mẹ tinh sạch thế, thiêng liêng thế. Dín chẳng cần được thờ phụng, Dín chỉ là bông đỗ quyên rơi rụng bên sườn đồi kia cũng được, chỉ cần hãy cho Dín một đứa con. Dòng máu trong người Dín sẽ không truyền sang cho nó, nó được kết bằng mây và sương rừng.

Dín thu đôi chân lại trước ngực, đàn bà ngồi bên nhau, cao quý và thấp hèn cũng vậy cả. Bỗng Dín bật cười khanh khách. Chỉ hai mẹ con ta biết được bí mật của nhau, vì chúng ta là đàn bà. Người đời cứ hay thêm thắt, cứ cao cả hóa mọi chuyện, thế mà Súa lại không tin con?

Là chị em, nằm bên nhau đấy nhưng Súa đâu biết rằng đêm nào lòng Dín cũng dội về những nỗi nhớ xưa cũ. Tuấn bảo không hiểu được Dín, nồng nhiệt và giá lạnh, cứ vừa gần vừa xa thế Tuấn không chịu được. Nếu không chờ được thì anh cứ lấy vợ đi, em không trách. Người đâu mà bạc mồm bạc miệng. Dín bảo chỉ mấy ngày nữa Dín đi. Đừng vội, ăn cưới Tuấn xong rồi hãy đi. Dín cười. Trước khi em đi, mình bên nhau thêm một lần nữa nhé? Một lần thôi. Tuấn không trả lời, lặng lẽ đi về, đầu chúi về phía trước.

Hôm Dín đi, trời mưa, cô khoác hờ chiếc áo rách tả tơi đứng chờ. Mưa xối vào mắt cay xè, đất trời tối âm thầm, không có đom đóm, cũng không có tiếng bước chân người tới. Biết đâu Tuấn quên rồi. Bây giờ Tuấn chẳng còn là của Dín nữa.

- Quyên ơi…

Dín quay đầu lại, đã lâu lắm chẳng ai gọi cô như thế.

- Thôi, về đi.

Lúc Súa đến nhà thờ, người ướt sũng sương, tóc Súa bàng bạc. Tự nhiên nhìn thấy Dín vục đầu bên chân Đức Mẹ, nói chuyện cùng bức tượng thì bao nhiêu căm tức, tủi hờn đều tan biến, Súa thấy ruột gan mình quặn lại, muốn khóc mà không khóc được. Đâu chỉ có mình Súa cô đơn, Dín và biết đâu Đức Mẹ đồng trinh nữa cũng đang âm thầm gặm nhấm nỗi đau riêng. Súa ác quá không? Thôi thì cứ đẻ, cứ để Dín một lần nếm nỗi đau của người làm mẹ rồi Dín sẽ hiểu. Một nỗi sợ vô hình, nỗi sợ truyền đời cứ thêu dệt trong đầu Súa, ban ngày và cả trong mơ.

- Không phải con của tôi.

Dín nép mình vào chân Đức Mẹ khi thấy Súa bước đến. Súa im lặng khẽ gật đầu. Cô ngẩng nhìn lên bức tượng sừng sững rồi thu mắt lại nơi đứa em đang ngồi rúm ró trên bậc thềm. Sức lực trong cô không còn, bàn chân, bàn tay rệu rã, Súa quỵ xuống bên Dín. Hai người đàn bà ngồi dựa vào nhau trong đêm. Thỉnh thoảng Dín lại lén nhìn chị, hai tay vòng trước bụng. Súa nghĩ gì mà nhìn xa xăm thế, hun hút vào đêm. Súa không mắng chửi, gào thét tự nhiên Dín thấy sợ, thấy nỗi đau đang râm rỉ trào lên trong mắt Súa. Lỗi của Dín?

Sống thế này người sẽ hóa dại mất thôi. Đáng lẽ Súa chỉ nên đi một mình, đừng có mang Dín theo, bắt Dín chôn vùi thanh xuân ở đảo mây này. Ngày mai, Súa sẽ dẫn Dín xuống núi.

- Đừng đuổi?

Dín ngập ngừng hỏi. Tay siết chặt vai Súa. Súa quay sang nhìn Dín không đáp, chỉ có tiếng thở dài nén lại của người kế bên.

Hai cái bóng lòa lòa trong sương, dìu nhau bước xuống ngôi đền về phía đảo mây. Xa xa những thân cây biêng biêng mục rệu bên đường nhập nhòa sáng tối. Và đâu đó trong tiếng sương cựa mình Súa còn nghe thấy cả tiếng tách mầm vươn lên của những chồi non

 

 

HUYẾT LIÊN HOA

 

 

 

Nhà họ Phó ba đời trồng sen trên đất Tây Hồ. Năm Tự Đức thứ 35 gia tộc khoanh đất trồng giao liên tất cả khu vực Hồ Đình, Đầm Trị. Thứ trà ướp sen thượng hạng này thường được các quan Bắc Kỳ tiến dâng vua. Nhờ đấy mà họ Phó được trọng vọng, ưu ái. Sinh thời Hoàng Kim Tích vốn say mê trà đạo, tâm hồn phóng khoáng giao lưu rộng, thích vãn cảnh làm thơ. Trong một chuyến du thuyền cùng bạn đồng môn tên Tôn Thất Bá trên Hồ Tây, khung cảnh đẹp, đâu đâu cũng xanh ngắt, lại điểm xuyết màu hoa. Thấy trữ tình, mà mải khơi thuyền lạc vào Đầm Trị. Tại đây, Tích đã gặp Phó Thành Quang, con trai nối dõi làng nghề Liên Hoa. Quang con nhà danh gia, lại thông thuộc kinh sử, thơ văn. Nhà họ Phó bình sinh có hai người con, ngoài Quang ra còn có một người con gái là Phó Thị Tuyết Liên. Sắc đẹp nổi tiếng vùng Kẻ Chợ. Mày ngài mắt phượng, lại làm thơ hay có tiếng khắp kinh kỳ.

Hôm ấy trời trong, Tuyết Liên cùng mẹ khơi thuyền ra hồ hái sen. Nắng rơi từng giọt sánh vàng như mật trên mảng lưng trần. Yếm thắm. Lúc gót sen vừa bén cửa, hai chàng thư sinh mắt ngây dại. Lại thêm hương trà vấn vít khiến hồn say, thấy mộng nghiêng nghiêng. Kim Tích nâng chén lên bằng vẻ trân quý mà rằng: Từ tấm bé, tôi chưa từng được thưởng qua thứ trà nào thanh đạm đến vậy. Tuyết Liên vừa tách nhụy sen bên thềm, cánh mỏng rơi, màu mênh mang, hương quện đặc, tưởng chừng như có thể dùng tay mà hớt: Nghề sen, cũng lắm công phu, ướp được hương rồi nhưng còn phải biết cách hãm trà sao cho đủ độ. Vị trà thanh, lại có cả lộc trời trong đó.

Hoàng Kim Tích: Kẻ học trò vốn hiểu biết còn nông cạn, xin hỏi nàng, có tất thảy bao nhiêu loại trà thượng hạng được chế từ sen? Tuyết Liên mặt bình thản, gạo sen vẫn rơi đều đều dưới tấm lá xanh biếc: Trước giờ tôi được biết, có tất thảy bốn cách ướp trà sen. Mộc liên hoa; Thủy liên hoa, Nhật sương trà. Mộc liên hoa, gạo sen được rải trên lá chè xanh ủ bên ngoài, sau ba ngày ba đêm khi hương sen đã đượm mới sao lá chè. Thông thường các nhà dân, tự cung tự cấp thì hay dùng Thủy liên hoa. Vừa thanh nhã vị đượm khó phai. Chè đã sao, được bọc trong bông sen mới nở, bên ngoài buộc nút. Hương ủ qua đêm, sáng ra tách nụ mà lấy về hãm. Nhật sương trà, có đủ cả sương gió trăng mây, búp chè được ngậm đủ gạo sen, được kết bằng những sợi tơ trời qua một đêm. Nhưng cách này ít dùng, vì phải lựa tiết trời và theo mùa vụ.

Tuyết Liên dứt lời, bối rối nhìn Kim Tích - kẻ học trò thần sắc thông minh, mắt như thông tỏ nỗi lòng nàng. Tôn Thất Bá lúc này mới lên tiếng: Thế còn cách thứ tư, xin hỏi nàng... Liên khoe mỉm cười rồi liếc về phía cuối đầm sen nơi thầy mẹ cô còn đang khơi nước. Phó Quang đỡ lời thay em gái: Cách này trước nay thầy không cho chúng tôi được nhắc đến. Vốn là cách tàn độc, và không được thanh cao. Bá cười: Chúng tôi vốn học trò, muốn hiểu cội gốc chứ cũng không có ý học nghề, anh đừng ngại. Phó Quang: Thực ra đó là cách dùng máu người để hãm trà. Huyết liên hoa hay còn gọi là máu của sen. Chè xanh đã sao tròn búp rải trên chiếc mâm đồng, chưa hây hây nguội, được tráng qua một lớp máu tươi, búp chè quánh lại. Sau đó hãm bằng nước được lấy từ những giọt sương đọng trên lá vào những đêm trăng tròn. Đó là thứ vị ma mị nhất thế gian. Cũng vì tính ác mà sau này bị thất truyền, và không dùng nữa.

Hoàng Kim Tích: Đúng là chữ thanh đi với chữ tiện. Cũng may là cách này giờ không ai dùng. Tôn Thất Bá không nói gì, đăm đăm nhìn về phía Tuyết Liên. Ánh nhìn rất lạ.

Cuộc đàm đạo đến tối sẫm mới tan. Ra về nhưng lòng quân tử dường như đã thầm yêu trộm nhớ. Về sau Tôn Thất Bá xin thầy chuyển về đình Yên Xá học chữ, cốt để tiện đường đến nhà Tuyết Liên. Đôi lời ướm hỏi, dao duyên tình tứ nhưng Tuyết Liên vẫn làm thinh, thấy lảng sang chuyện khác. Mấy lần trong cuộc chuyện trò lại hỏi chàng thư sinh họ Hoàng. Trong lòng Bá nổi lên cơn giận, nhưng vẫn giằn lòng. Hai quý sau, Bá đưa cau trầu đến đính ước, nhưng Tuyết Liên từ chối. Boe bàng, mặt Bá tím ngắt, ngậm ngùi trở về, thầy mẹ đay nghiến xỉ vả. Trong lòng nảy sinh uất hận. Đêm Ba mươi, trời tối thăm thẳm, Tuyết Liên mang chè vào thành về đến rìa đầm Thanh Uy thì bị kẻ gian trùm bao tải quá đầu bế thốc đi. Biết mình không tránh khỏi bị làm nhục. Tuyết Liên đã cắn lưỡi quyên sinh, lúc kẻ gian kéo bao tải ra đã thấy nàng chết. Thây nằm chơi vơi trên cỏ, sương phủ trên người bằng cánh sen.

Sau này Tích đỗ bảng vàng, được phong quan lấy hiệu là Hoàng Diệu, hưởng lộc vua, bận việc nước, bẵng đi mấy năm không gặp. Nhưng bụng vẫn đinh ninh nỗi nhớ miền Liên Hoa. Được tin Tuyết Liên chết, Tích đi thất thểu dọc bên bờ sen. Đến chỗ Tuyết Liên nằm, bỗng nhiên một bông sen gẫy ngang thân. Tích tuôn dòng lệ mà than.

Đất giời có biến. Nhâm Ngọ. Gấu ăn trăng.

Nhìn lên thấy trăng chảy máu. Khắp nơi tiếng trống, tiếng chậu, tiếng la hét ầm ào dưới đất. Người đời gọi là tục giữ trăng. Nguyệt đã mất quá phân nửa, đàn bà xô ra sân, thấy cụ Phó đứng bất động thì nghếch mặt lên giời mà hỏi. Có đuổi không? Cụ khoe lắc đầu. Không kịp nữa. Rồi cụ gọi người con cả là Phó Thành Minh vào trong am ướp chè, bảo đóng cửa lại. Đàn bà họ Phó nhìn nhau, trong lòng nung lắm.Một tuần nay, thấy thuyền bè ngoại quốc dập xuôi ngược các bến Chanh, Bến Lượng, ta thấy không yên. Trong thành chắc sắp có biến, nay nhìn đất giời ứng mệnh, gấu cắn xé trăng, máu tưới ướt dân gian. Làng nghề này cũng lụy. Việc cấm công thương đã gót được hai tuần, mà xem chừng chưa mong tới ngày mở cửa. Cụ Phó khêu bấc đèn dầu, ánh sáng tỏ rạng. Minh nhìn thầy ngồi so lại rất thiểu não. Dạo này không thấy Ngài qua thưởng trà? Minh buột miệng hỏi. Việc nước đang rối như tơ vò, hỏi có lòng nào mà thưởng ngoạn. Quân cờ đen đã căng buồm tiến sát sông ta, e tây tàu kết bè vận nước tất khó lòng giữ vững. Nay ta gọi con xuống là muốn con giúp ta một việc.

Sáng hôm sau Minh cắp tay nải ra khỏi nhà, trời còn chưa tảng sương, hai bên đầm sen đã bắt đầu lụi nhìn rất tiêu điều.

Lại nói việc trong thành, sớ dâng lên đã ngót được hơn hai tuần nhưng vẫn không hồi đáp. Nghe phong thanh thấy bảo vua không ưng, việc phòng chống giặc chưa cần thiết, ứng phó phải mềm mỏng. Tình thế đang bất lợi, nếu huy động quân binh, e sinh nghi hoặc lòng giặc. Nếu chúng không có lòng phản ước, cũng sẽ vin vào cớ này mà dấy binh.

Nửa đêm có lệnh, Tổng đốc Hà Ninh vời gọi tất cả quan văn quan võ trấn tại thành vào họp bàn cơ mật. Lửa đốt sáng sân, mười hai khuôn mặt toát vẻ tinh anh, dũng mãnh. Hoàng Diệu đi lại một hồi, tháng nay vò gối suy xét việc nước thân thể ông suy nhược đi nhiều. Hà Thành là yết hầu của Bắc Kỳ, cũng là nơi then chốt. Giữ được thành là giữ được nước, mất thành rồi, chẳng khác nào người bị cắt đầu. Nay giặc đã tiến sát sông bến chanh, Hà Thành đang bị uy hiếp. Nay ta vời các quan đến đây để mưu sự, mỗi người một cách ứng biến giữ vận nước. Giặc mạnh nhưng chí ta kiên thì tất mình sẽ thắng.

Sau một hồi Tôn Thất Bá mới thưa, lúc này Bá đã lên đến chức án sát. Trong ánh lửa, lông mày Bá chau lại nhìn mắt nhỏ hẹp mà rất lanh. Thưa Tổng đốc, tôi thiết nghĩ hiện thời quân địch mạnh, bu dầy như kiến cỏ, vốn cậy súng tây nổ súng vang. Nếu chỉ dựa vào sức mấy tỉnh thành e khó bề chống đỡ. Một mặt nên ra sức xin triều đình Huế viện binh ra, mặt khác tập hợp binh sĩ trong thành mài gươm luyện võ, tăng quân ở các chốt quan hiểm. Sau khi trên dưới đồng lòng, hoạch định cách chống giặc. Hoàng Diệu suy nghĩ một hồi rồi nói: Lúc này phải dựa vào lòng dân, lương thực dự trữ trong thành một tháng nay sắp cạn, không biết nếu giặc vây sẽ bám trụ được mấy ngày.

Nửa đêm. Mưa xối từ trên thành xuống ào ào như thác đổ. Trận mưa hiếm gặp ở tiết đông xuân.

Canh ba đêm vắng, vừa chợp mắt được một lúc thì Diệu mơ, thấy trong ngoài thành ngập lửa.

Người con gái không nhìn rõ mặt, kéo tay Diệu, vừa đi vừa nói bằng tiếng khẩn nài "Ngài mau đi đi, mau đi thì còn kịp. Lửa liếm hết Hà Thành rồi". Chạy ra đến cửa thành thì nước dâng mỗi lúc một cao, ngập tới lưng lưng bụng. Cúi xuống thấy một màu tối thẫm, có mùi của máu. Tiếng gào thét, tiếng súng. Người con gái bị ngập trong nước, nổi lềnh phềnh dạt vào gốc đa trước cửa thành. Lúc này mặt người con gái bị ướt một nửa, chỉ nhìn thấy nghiêng nghiêng. Tuyết Liên. Diệu nhích từng bước đến thì không thấy người vừa nãy. Tĩnh tâm lại thì nghe tiếng đàn tì bà. Ai gẩy đàn vào lúc nửa đêm? Diệu tiến về phía thành, thấy bóng trắng mờ dần. Có chăng là kẻ hát dạo đêm? Tiếng hát còn rề rà như khúc đưa tang vọng lại.

Ai oán ai lầm lạc?

Ơi hời! Ai oán ai lầm lạc?

Thế thời thời thế!

Tổng đốc tỉnh giấc, thấy mình đẫm mồ hôi. Ngài đến bên án thư, khơi đèn rồi viết thư cho người bạn tâm giao, vốn là nhà quý tộc dư giả trong thành có thể tin cậy. Phó Thành Quang. Thư vừa là tâm giao vừa là việc nước. Thếp giấy dầy dặn giao cho quân lính đưa đến nhà họ Phó.

Tảng sáng thì có người gọi cửa. Cái lạnh của xứ miệt kinh kỳ, khiến đất giời vò võ. Cả nhà thất kinh. Tên lính vừa đưa thư cho cụ Phó xong lại tất tả đội mưa về. Phó vào thư phòng mở thư đọc, thấy tay run, vẻ mặt đăm chiêu. Vậy là vận trời như dự liệu, phen này đất kinh kỳ lại một phen binh biến. Cụ hối người quản gia già kê khai ngân sách dồn phân nửa số tiền mua lương thực chuẩn bị đưa vào Thành.

Rạng ngày 23 tháng 4 tức ngày mồng 6 tháng 3...

Henri Rivière cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy nhằm uy hiếp Hà Thành. Hoàng Diệu lập tức hạ lệnh giới nghiêm và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng chiến đấu, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế. Henri Rivière đưa tối hậu thư, yêu sách những điều khoản chẳng khác nào phường giặc cướp trắng trợn.

Lúc này Hoàng Diệu phái Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không có tin phản hồi từ giặc. Bá đi chuyến này về, trong lòng nao núng, thấy vận nước đã suy, quân tử cũng phải thức thời. Vua muốn giữ ngai vàng nên rụt đầu như rùa ở xó.

Lửa chiến tranh đã lan rộng. Huống chi bao năm qua, dưới trướng của Diệu, Bá đã sẵn chẳng vừa lòng. Thêm nỗi oán hận mối tình riêng năm nào mà sinh lòng phản trắc.

Quân sĩ trong thành dưới sự chỉ huy của Hoàng Diệu, bề ngoài lăm lăm giáo mác hô thề quyết tử giữ thành nhưng thực chất lòng dạ đã kinh hoàng bạt vía khi thấy pháo quân thù đã chĩa thẳng vào thành. Giáo gươm nào đọ được với súng? Xác người nát như tương. Mỏng hơn sợi cỏ. Quân lương trong thành đã sắp đến mức cạn kiệt. Bên ngoài Phó Thành Quang vẫn chưa đưa được vào.

*

* *

Lại nói tới việc tiếp viện từ dân, mới nhiều cay cực. Sau khi thu mua được số lương thực quanh vùng trong vụ đói giáp hạt, Phó Thành Quang lập tức cho người chia nhỏ thành từng gánh bên trên phủ chè, bọc lá sen, gánh vào thành. Mới trót lọt được ba mẻ. Đến dậm chiều ngày mồng 7 quân Pháp đã chăng chăng các cửa, màu áo vàng như cứt ngựa. Những vụn chè bị xối tung lương thảo nát vụn dưới đế giầy đinh. Một vài gia nhân nhà họ Phó bị bắt.

Từ ngày vâng lệnh cha tay nải lên đường, thuyền nan vẫn dập dềnh ngoài bãi sông Hồng. Giặc đã chiếm và quản thúc các nhánh sông, nhưng Phó Thành Minh vẫn gối mật nằm sương chờ đến thời lúc. Trong nhà họ Phó đã cho gia nhân và người làm thu xếp chạy loạn.

Đến phút cùng, khi tiếng súng đầu tiên nổ vào thành, khu đầm trị chỉ còn gia tộc nhà họ Phó vẫn kiên quyết bám đất. Tổng cộng có sáu người, hai người đàn bà, bốn người đàn ông, trong đó quản gia già, cụ Phó, đứa cháu đích tôn và anh gia nhân trung thành với chủ.

Phó Thành Quang lúc này đứng chơ vơ trước đất giời, thấy ngàn vạn vì tinh tú đang gieo mình xuống thăm thẳm tối. Cụ dắt đứa cháu nội của mình xuống am trà rồi ướp mẻ sen cuối cùng.

Chè xanh được sao tròn búp, giòn rộp trong lớp lá sen. Một lớp gạo sen lấm tấm như ngàn vạn hạt ngọc li ti rải lót đáy chum sành. Chè rắc lên, đều đều... Mồ hôi thánh thót. Cách một lớp chè, lại một lớp gạo sen. Khi chiếc chum được đậy lại, cụ Phó vuốt mồ hôi rồi hỏi thấy có gì khác không? Đứa cháu còn thơ dại lắc đầu. Cụ Phó mỉm cười, gạt lớp than hồng rực sang mé bếp, rồi với tay lấy chiếc đèn dầu. Sen còn thì người còn, sen mất thì người mất con ơi, cũng như nước thôi...

Đàn bà họ Phó đứng ngoài khóc rấm rứt, khóc cho vận nước, vận nhà, vận mình rồi sẽ đi về đâu?

Trong thành nổi lửa. Lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chánh Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành. Canh một, Pháp đã tiến sát thành. Hoàng Diệu tuốt gươm vung sáng loáng trên thành, hô quân sĩ kiên cường. Hai canh giờ thì Tôn Thất Bá vừa chạy vừa thở hồng hộc, mặt xám ngoét đến bên Hoàng Diệu mà rằng: Quân địch mạnh, không biết có cầm được sáng mai. Nay tôi xin lấy thân mình, quyết liều phá vòng vây tìm đến triều đình xin cứu viện. Hoàng Diệu không chút hồ nghi, đặt tay lên vai Bá, mắt loang ướt. Tấm lòng trung quân của ông có đất giời thấu tỏ.

Lúc này theo sự chỉ đạo của Tổng đốc, dân làng các vùng ngoại thành dựng chiến hào, ngăn cản đường tiến công của địch. Từ các ngôi nhà trống, các ụ tre trúc bên đường, nơi giặc đi qua, như ma quỷ thoắt ẩn thoát hiện găm thẳng ngực kẻ thù. Một số bị thương vong, địch buộc lòng phải lui quân ra ngoại thành để củng cố lực lượng.

Sau khi rời thành, Tôn Thất Bá không đi về hướng nam mà chạy ngược lên làng Mọc, phía đông nam Hà thành tìm gặp Henri Rivière thông báo tình hình trong thành cho chúng. Đồng thời, Bá cũng dâng sớ lên vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu và xin với Pháp cho Bá thay làm Tổng đốc Hà Ninh. Henri Rivière gật đầu đồng ý rồi nhếch miệng cười nhạt thếch. Lúc này Bá mới hiểu ra cơ sự, mồ hôi vã ướt đầm sống lưng. Ăn của chủ nào phải theo chủ ấy, cái này ông hiểu chứ? Bá vội vàng gật đầu. Đêm, dáng cúi gằm, chân nọ léo vào chân kia, gã chạy về phía kho thuốc trong thành.

Đêm ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3.

Tiếng súng yên. Đêm lại về tĩnh lặng. Lúc này trong nhà họ Phó, đàn ông đã nai nịt gọn gàng, đầu chít khăn, nâng quang gánh lên vai, bước vội vàng vào màn đêm. Đàn bà ra ngõ ngóng, tiếng trẻ con thi thoảng lại khóc ré lên. Đến được cửa thành thì cửa đóng kín bưng, trong ngoài lính canh nghiêm ngặt. Phó Quang vuốt mồ hôi còn ròng ròng trên mặt mà rằng: Ta là chỗ tâm phúc của Tổng đốc, phiền anh vào thưa, ta mang lương thực vào thành.

Trà thơm một ấm

Cơm tấm một đòn

Ăn ăn

Nuốt nuốt

Mà bỗng nhiên có một gã lính trẻ bật khóc, mắt rưng rưng. Bảo nhớ mẹ. Không biết giờ đã đi chạy loạn chưa? Diệu nén tiếng thở dài, bước đến cửa thành nhìn xuống. Đặt chén nước trà lên mặt thành rồi quay sang nói với Phó Quang. Tôi nghe đêm tĩnh mịch, nghe chừng còn nguy hơn tiếng súng. Trận này quyết chiến, chẳng biết bằng hữu ta còn có gặp được nhau. Được uống chén trà có tình của ông, tri âm chẳng còn gì bằng. Nay bác nhanh chóng trở về lo cho gia quyến. Nếu còn ngày gặp lại... Diệu ngắt quãng. Lúc này Phó Quang đã rưng rưng. Đến phút cuối, nếu sức giặc càn vỡ trận, thì... con thuyền nan bên ngạn sông Hồng vẫn đợi ngài. Cháu vẫn chờ ngài ngoài đó. Nói rồi Phó Quang xuống thành. Vừa đi vừa than. Đêm ấy búp sen đá bằng cẩm thạch bấy lâu nay Hoàng Diệu giữ bên mình bỗng chuyển màu, đỏ quạch. Huyết liên hoa... Huyết liên hoa... Diệu bỗng gai người, lặng lẽ bọc búp sen lại.

Phó Quang vừa về đến nhà, chân ướt chân ráo được nửa canh thì kho thuốc nổ Hà Nội bị cháy, một góc trời bị nung đỏ. Pháo nã dồn dập liên hồi. Náo loạn. Chạy. Xác chồng trên xác.

Phó Thành Minh nghe tin thành thất thủ vội vàng lẩn theo đám người chạy loạn mà tìm cách vào. Tiếng súng lúc này đã im, thành tan hoang, thây người xếp dầy như nêm từ Hàng Chĩnh vào chân thành. Một mảng tường vỡ bung, lồi lõm, màu áo cứt ngựa đã kín đặc sân. Tiếng tây lố nhố. Vòng trong vòng ngoài, không thấy xác Tổng đốc, chẳng lẽ ngài đã trốn được khỏi tay giặc? Lúc Minh mò mẫm được ra tới cửa thì thấy giặc bu đầy gốc đa, một dải lụa trắng, Hoàng Diệu đã tuẫn tiết để giữ lòng trung với nước. Henri Rivière khẽ cúi đầu, Tôn Thất Bá khúm núm đứng kề bên, nhìn trân trối. Một tiếng nấc bất ngờ vang lên trong khe tường tối âm âm, đồng loạt tất cả mũi súng chĩa thẳng về phía Minh. Henri khoát tay. Bắt sống. Báng súng đập chan chát vào bụng Minh, máu hộc ra miệng. Hai mắt Minh gần như trợn trừng, trắng dã, nhìn đăm đăm vào mặt Tôn Thất Bá. Bá tránh ngay ánh nhìn hằn học ấy.

Canh năm, Phó Thành Minh bị trói giật cánh khuỷu, rã rời, vừa đi vừa lết trên đường. Hai bên rìa sen, gió mưa khiến cảnh càng thêm tiều tụy. Máu từ miệng Minh rớt dọc đường, thấm xuống từng lớp cỏ. Bá đi bâng lâng trên cỏ, thấy đâu đó mùi trinh nữ ngai ngái như mùi bùn non phảng phất. Đôi mắt Tuyết Liên vẫn mở đăm đăm nhìn. Sen đã lụi, người xưa cũng mất. Lỗi này tại ai? Tại trời, ý trời khó tránh. Bây giờ Bá chẳng tin ai, chẳng thương ai, chẳng sống vì ai nữa. Cả đế vương. Cười nhạt. Đế vương xa lắm, đế vương rụt đầu. Người cũng đang vừa khóc vừa cười như kẻ ngẫn...

Am trà bị phá tung, những vụn chè khô vương vãi khắp nhà. Sáu con người quỳ dưới đất. Minh gục đầu vào lòng mẹ, máu nhểu thành bọt. Hơi thở đã gần đứt, mỏng như sợ khói. Henri Rivière chỉ vào mặt Phó Quang. Lão già. Nghe nói nhà lão ba đời làm nghề ướp trà sen? Nghe là lạ. Thế phải pha với cái gì? Thưa ngài bằng hạt sương được lấy từ lá sen buổi sớm, đun sôi pha với chè. Henri Rivière cười, Tôn Thất Bá cũng cười hùa theo. Người nước ta không uống trà sen, không quen hạt sương, sương phương nam có độc. Ta nghe nói ở xứ sở các người có thứ Huyết liên hoa thượng hạng. Thưa, từ bé đến giờ tôi chưa từng nghe thấy thứ trà ấy bao giờ. Henri Rivière quay sang nhìn Tôn Thất Bá, lúc này mắt đang bần thần nhìn đăm đăm ra đầm sen. Hắn trả lời trong vô thức: Pha trà bằng máu. Henri Rivière cười vang. Bây giờ ta muốn ông lấy máu Thành Minh pha trà. Phó Quang đứng phắt dậy. Đồ phản trắc, đồ bội bạc. Ngươi đang tâm cõng rắn cắn gà nhà. Giết anh em bằng hữu. Đồ giặc cỏ.

Phó Quang gục xuống, một bên trán máu tuôn ướt đầm. Đàn bà khóc. Đàn bà kêu xin. Những tiếng cười. Năm con thú, với những lông tay vàng chóe, nanh vuốt trắng ởn. Kê đầu cụ Phó lên trảng gỗ. Một tiếng "phập" khô gọn. Máu phun xối xả, chiếc ấm nung bằng đất sánh đặc máu. Máu nóng hổi, bốc hơi tanh lộng óc. Những súng gươm tua tủa đã dí vào đầu Thành Minh, lão quản gia già, đứa cháu cuối cùng của dòng tộc. Đàn bà run. Lửa đã châm, rừng rực giữa nhà. Tấm biển sơn son thếp vàng bị hạ xuống làm mồi cháy.Chè xanh đã sao tròn búp rải trên chiếc mâm đồng, chưa hây hây nguội, được tráng qua một lớp máu tươi, búp chè quánh lại. Sau đó được hãm bằng nước được lấy từ những giọt sương đêm đọng trên lá úa ven hồ. Trong ấy có cả nước mắt đàn bà.

Một nắm chè giòn rộp đổ vào. Những cú lắc chao chao. Huyết liên hoa, huyết liên hoa. Những tiếng cười. Huyết sóng đọng thành váng. Đàn bà ngậm miệng. Bóp miệng, bóp ngàm cua. Ra thế. Đàn bà uống trà. Mắt trợn ngược. Chắc ngon. Máu vương đầy miệng. Nước mắt đầm đìa. Phó Thành Minh chỉ kịp nấc lên một tiếng rồi tắt thở.

Tôn Thất Bá quay cuồng, đầu đau như trăm ngàn mũi giáo đâm xuyên. Hai tay bưng mặt. Bá chạy lao ra phía đầm sen. Ngã. Dụi mặt xuống vũng bùn phía trước. Thấy bóng yếm thắm xa xa, rồi thẫm lại trên rìa đầm phía bên kia sông. Máu Phó Quang chảy ròng xuống đầm Trị. Vụ sau, từ các gốc sen đã lụi tách nước ngoi lên những mầm mới. Đâm hoa, ngàn vạn nụ trắng phau, và duy nhất đầm Trị chỉ trồng được một loài sen trắng.

 

ĐÈN TRỜI TRÊN BẾN KHÔNG TRĂNG

Tối nay Thanh không về thì mâm cơm, cút rượu, ánh sáng này thành vô nghĩa hết. Đâu có phải bà Miền trưng cho mình.

 

Lạnh thế này, bờ sông vắng ngắt, bến Chanh chỉ thấy mùi au au của trảng bông gàu tím rục. Nó còn ngoài đấy làm gì? Muốn đi thì cứ đi bà không cản nữa. Bà Miền đi ra cửa nhìn xuống con đường làng tối thăm thẳm rồi quay trở vào, ngỡ ngàng khi thấy bóng mình in trên vách. Có bao nhiêu dầu, bao nhiêu đèn dành dụm bà thắp hết đêm nay. Hôm nay sẽ khác mọi ngày. Thử xem sống trong ánh sáng người ta thế nào. À. Đây, có ánh sáng là nhìn thấy được bóng mình, bóng mình nghiêng nghiêng xiêu vẹo. Bà buột miệng cười. Nhấp thêm ngụm rượu nhỏ, thấy đắng chát rực lên trong cổ họng. Hơi ấm và nước mắt sống chảy ra. Dựa lưng vào vách tường để không nhìn thấy chiếc bóng. Mỗi hôm nay thôi ngày mai sẽ lại sống với trăng, với bóng đêm.

*

Đứng trước cầu đá ong, dưới kia nước sông Chanh vẫn âm thầm chảy. Bóng đêm xâm lấn ký ức, hiện tại và cả ánh nhìn lúc này. Đêm nay Thanh không muốn về nhà, cũng không muốn gặp Sương. Không muốn làm người ta hy vọng quá. Có ai ra đi lại muốn gửi gắm thương yêu, hứa hẹn đợi chờ khi mà chưa biết rồi sẽ ra sao. Bây giờ Sương cũng khóc, và mẹ cũng khóc. Hai người đàn bà của cuộc đời anh. Thanh muốn quên tất cả. Nằm xuống trảng bông gàu thấy nhựa hoa rịn ra thấm vào da thịt. Nhắm mắt lại thấy mình là con trâu nước bơi qua sông Chanh đón cô tiên xanh, cô tiên xanh có khuôn mặt giống Sương đến lạ lùng. Cô tiên xanh nhỏ nước mắt xuống dòng sông để màu nước trong veo nhìn thấu tận đáy. Lời kể của mẹ cứ như xa như gần, thấm vào giấc mơ Thanh từ thơ bé. Giấc mơ theo gió bay lên nhè nhẹ…

Đêm hôm ấy đuốc sáng rực làng Hạ. Thanh nằm trong lòng mẹ, còn thiu thiu ngủ. Trong giấc mơ, cậu thấy ngàn vạn chiếc đèn trời được thắp sáng từ từ bay lên. Tiếng mẹ hét thất thanh, mẹ ôm Thanh nhào dậy chạy ra ngoài sân. Thanh vừa chạy theo mẹ vừa mở mắt, đuốc sáng giữa sân nhà. Thanh ngẩng đầu nhìn mẹ.

- Chuẩn bị đi thả đèn trời hả mẹ?

Không. Người ta không thả đèn trời nữa. Chỉ thấy đuốc sáng rừng rực. Sáng tỏ khuôn mặt người, những ánh nhìn héo queo bỗng rực lên như bị dội lửa. Người ta đóng cửa niêm phong nhà trên, hai mẹ con Thanh đêm ấy không ngủ. Thanh ngồi co ro trong lòng mẹ giữa sân nhà, thỉnh thoảng ngước lên trán chạm cằm mẹ lại thấy nước mắt mẹ nhỏ xuống ướt nhẹt mái đầu.

Nhưng mẹ nói đừng trách giận, đừng oán thù. Không ai có tội cả. Thanh im lặng. Từ đấy anh thả oán thù xuống dưới dòng sông Chanh, nhờ nước mang đi, nước thường chảy nhanh, nước nhấn chìm tất cả. Nhưng nước không rửa trôi điều tiếng người đời.

Sao mẹ lại dạy con phải cúi đầu? Cúi đầu khó đi lắm, không thấy được mặt người, mọi thứ xung quanh. Thấy bầu trời tối xẫm, tối như căn nhà mười mấy năm nay mẹ con mình không ánh sáng, mẹ dạy con sống phải biết sợ mọi thứ. Sợ nhất là lòng người. Mà con thường nông nổi, tin tưởng tất thảy mọi thứ giống như ký ức trong veo của thằng bé Thanh lúc bẩy tuổi. Thanh không muốn thế, anh thích hướng về phía ánh sáng lung linh, và mọi thứ xung quanh. Cúi xuống làm sao thấy được mắt Sương? Làm sao thấy được nụ cười.

- Cúi xuống!

Hoàng hôn thẫm đỏ, đỏ rau rau như máu trong ngực sôi lên chỉ chực trào ra khỏi da thịt. Thanh lăn dài trên những trảng bông gàu tím thẫm. Nước mắt chảy xuôi xuống miệng xuống mảnh đất này.

- Sao lại thế?

Lớn lên rồi con sẽ hiểu. Vẫn câu nói cũ Thanh nghe đã mấy ngàn lần. Mỗi bước đi, mỗi lần trước khi đi ngủ cậu bé vẫn mong mình lớn vổng để hiểu được mọi sự trên đời.

Ngày Thanh dắt Sương về nhà, mẹ hoảng hốt đánh rơi chiếc nồi duy nhất. Chiếc nồi vỡ vụn từng mảnh găm vào bàn chân tóe máu. Mẹ nhìn Sương rồi nhìn con trai đau đớn. Nét mặt bà đanh lại, cúi đầu. Sương khóc, Sương chạy vụt đi. Từ hôm ấy hai đứa thầm yêu nhau mà chẳng nghĩ có tương lai gì nữa. Mẹ bảo có biết đứa con gái đấy không?

Thanh ngồi trước hiên nhà, hai tay ôm trán.

- Đấy sẽ là con dâu mẹ.

Mẹ vừa cười vừa khóc. Mẹ nhặt những mảnh vụn của chiếc nồi đất lên tay. Tối nhà không cơm, hai mẹ con ngồi ăn măng đắng. Măng đắng chát cào xé ruột gan, càng ăn càng thấy đói. Nhưng nó làm cả hai mẹ con thấy không xót bằng nỗi đau trong lòng. Thanh biết chứ, anh biết Sương là ai. Là con gái chú Dậu, người đầy tớ từng kề cận bên thầy. Và cũng là người xiết dây thừng kéo lê thầy trên thảm cỏ bông gàu chiều hôm ấy. Sẽ chẳng tới đâu cả, đừng yêu, lấy nhau sao được. Sẽ tới lúc con phải tự ngẩng mặt lên với làng Hạ.

*

Ba chiếc đèn dầu dần thụt bấc, ánh sáng lòe nhòe dần, chai rượu vơi lưng lưng nửa. Tự dưng bà Miền thấy ruột gan mình dấy lên một nỗi chua xót đến lạ. Bà thương mình, thương thằng Thanh thương cả thứ ánh sáng lung linh không thuộc về thế giới của hai người. Chúng cũng dần tắt lụi, Thanh không nhìn thấy được. Một chút lòng thành của người mẹ muốn dành cho con ngày cuối trước khi ra trận. Còn thiết gì nữa. Nước mắt bà bật ra như chanh vắt, giờ phút này cần gì kìm nén, cần gì che giấu, Thanh không ở đây, người đời không biết, chỉ có cái bóng biết. Bóng cũng khóc bằng nỗi câm lặng.

- Đừng bỏ mẹ mà đi. Đừng bỏ…

Bà Miền đứng dậy chao đảo đi ra đường, đường làng heo hút, chỉ thấy gió buốt thấu tận tim. Tiếng gõ mõ đều đều. Ngôi nhà bên kia đường, tiếng khóc vỡ òa bật ra. Chắc nhà ấy cũng có con lên đường nhập ngũ sáng mai. Bà Miền muốn ôm lấy Thanh vào lòng, được khóc nấc lên từng tiếng. Rằng mẹ không nỡ. Rằng hãy bỏ qua tất cả đi. Ở nhà với mẹ. Danh dự ư? Điều tiếng ư? Làm sao bằng được đứa con bằng xương bằng thịt đứng trước mặt mẹ lúc này. Con trai tôi mới mười bẩy tuổi, nó còn chưa đủ tuổi nhập ngũ.

Đêm hôm trước bà Miền nằm mơ gặp chồng ngồi ở trảng bông gàu. Chồng ngồi quay lưng lại.
- Mình phải để nó đi, chỉ có đi mới rửa sạch danh dự họ Trần Văn?

Bà Miền đi lùi một vài bước, chân luýnh quýnh.

- Không. Tôi chỉ còn mình nó. Nó mà có bề nào, tôi làm sao sống. Mình hiểu cho tôi.

Chồng bà vẫn lặp đi lặp lại chỉ một câu hờn trách. Tay ông với sang bên bứt một sợi bông gàu từ từ nhỏ xuống những giọt máu. Bông gàu uống nhanh, thấm vào thân chuyển sang sắc đỏ.

Nhìn đi. Máu dòng họ Trần Văn sẽ tưới đẫm tay cô.

Bà Miền cúi xuống xòe đôi bàn tay mình. Nó là máu của Thanh? Máu của hoàng hôn? Hay máu của dòng họ Trần Văn?

Bà ôm đầu quỵ xuống, ngửa mặt lên trời mà than.

- Trời cao đất dày có thấu lòng tôi!

Người đàn ông không nói gì lẳng lặng bước xuống nước, khuất dần sau trảng bông gàu đỏ thẫm.

Dòng họ Trần Văn sẽ nguyền rủa tôi. Từ khi mất chồng, mất gia sản tôi chỉ còn có thằng Thanh. Tôi sẽ sống dù lay lắt, dù phải cúi mặt cũng phải nuôi thằng Thanh nên người. Những mong một ngày nó lớn để lấy lại danh dự dòng họ. Làm sao quên được những đêm trốn con đi lang thang ra những điếm canh đồng để tìm đàn ông đổi gạo. Giá trị của một người đàn bà, tiết hạnh, phẩm giá sẽ được đánh đổi tất cả để bảo vệ đứa con của mình. Anh trách tôi không tiết hạnh, tôi là đứa con dâu hư của dòng tộc Trần Văn. Tôi nhận. Nhưng tôi không thể để con mình chết đói. Tôi bán thân. Họ hành hạ nhiều hơn là hưởng thụ, mỗi lần bọc nắm gạo vào vạt áo chạy về với con mà nước mắt thấm ướt lần lâu lần mới. Thanh lớn bằng những hạt gạo ấy. Mình thấy sai trái ư? Trăm ngàn lần tôi muốn cùng con theo mình xuống dưới đấy. Mình bảo không. Không được phép. Phải sống.

- Mẹ ơi. Lần sau mẹ đừng đi xin gạo nữa. Con không đói.

Bà Miền chết sững người, chiếc bát trên tay rơi xuống. Bà không dám ngẩng mặt nhìn con. Nó đã biết những gì. Phải chăng nó trốn nhà theo mẹ âm thầm đi đêm đến điếm canh. Mẹ của con nhơ nhuốc, mẹ của con ngàn lần tội lỗi Thanh ơi. Mẹ đã sống những ngày không ngẩng đầu nhìn bất cứ ai, có mỗi con để mẹ nâng niu ve vuốt. Mẹ sợ hãi nhìn vào đôi mắt trong veo trẻ nhỏ. Đôi mắt ấy không đáng nhìn những gì không thấy. Sao con dám? Không nói không rằng hất bát cơm khỏi tay thằng Thanh, kéo ra giữa sân lấy chiếc roi vụt lằn lâu lằn mới lên mông nó. Thanh không biết khóc như những đứa trẻ trong làng, nó cắn chặt tay, và nấc lên.

- Nói. Ai cho con theo mẹ đi. Ai cho?

Bà Miền vừa vụt vừa khóc, mỗi lần roi quất xuống ruột gan mình thắt lại. Đến khi nhìn xuống thấy cánh tay Thanh trào máu, vết răng bậm sâu. Vứt chiếc roi xuống đất ôm ghì lấy đứa con khóc nấc lên. Tha tội cho mẹ. Rồi chúng ta sẽ chết, sớm muộn gì cũng chết con ơi. Chết sớm ngày nào hay ngày đấy. Đừng nhìn mẹ nữa, mẹ xin. Hai mẹ con ôm nhau. Thanh khẽ vuốt mái tóc mẹ như an ủi. Từ hôm ấy mắt Thanh không trong veo như trước nữa, cậu biết bài học đầu tiên khi cầm bát cơm đưa lên miệng. Bát cơm đổi bằng máu và nước mắt của mẹ. Bằng bài học danh dự của kiếp người.

Thế mà mẹ con Thanh vẫn sống, ngày cúi đầu đêm ngẩng mặt nhìn bầu trời cao vợi. Bà Miền biết không bảo được thằng con trai, nó vẫn ngẩng đầu hiên ngang đi giữa làng khi không có mặt bà ở đấy. Thỉnh thoảng Thanh nói với mẹ. Con nhìn rồi không có gì trên đấy, không có đèn trời, chỉ có trăng sao. Ừ đúng, chẳng có gì ngoài khoảng không thăm thẳm như trí tưởng tượng vừa xa xôi mờ mịt của Thanh.

- Mẹ đừng sợ!

Thanh nắm lấy tay mẹ đi thẳng đến chỗ đăng ký nghĩa vụ quân sự. Mọi người im lặng nhìn theo. Hôm ấy Thanh thấy mắt Sương buồn thăm thẳm, muốn níu kéo, muốn mong đợi gì ở trong ánh mắt ấy.

- Thưa ông. Cháu đến đăng ký đi lính đợt này.

- Bao nhiêu tuổi?

- Mười bẩy.

Người đàn ông ngước nhìn Thanh và bà Miền.

- Chưa đủ tuổi. Sang năm nhá.

Thanh dẫn mẹ về nhà, suốt dọc đường bà Miền không nói gì. Nét mặt buồn rượi, thỉnh thoảng Thanh nghe thấy mẹ nén tiếng thở dài. Hai mẹ con bước lên cầu đá ong. Tự dưng mọi thứ xung quanh cứ gợi cho anh cảm giác buồn rũ rượi.

- Con sẽ viết đơn bằng máu.

Bà Miền dừng lại bấu chặt bờ vai đứa con, nhìn sâu vào mắt nó.

- Đừng. Mẹ xin. Đừng đi nữa, mẹ chỉ có mình con. Mẹ chết mất. Không cần gì cả.

Nước mắt bật ra nhỏ xuống dòng sông. Mẹ không cần con phải đánh đổi. Thành phần với mẹ còn quan trọng gì nữa, đã đến hết nửa cuộc đời mẹ biết cái gì quan trọng. Tuổi trẻ thường sống bằng danh dự nhưng già rồi sẽ sống bằng tình thương yêu. Con làm sao hiểu hết. Người nằm dưới kia, người sống trên này, hận thù nhau, cao sang hay thấp hèn đều trở về với cỏ. Điều tiếng sẽ theo gió mây cuốn trôi đi, mẹ đã nói bao lần con hãy thả oán thù xuống dưới dòng sông. Con quên ư? Hay con vẫn nhớ? Cuộc đời này, con là tất cả. Không ai, không một thứ danh dự vô nghĩa nào có thể cướp được con từ tay mẹ.

- Con đi không phải chỉ để xóa thành phần đâu. Đất nước có giặc, con là thằng đàn ông. Ở nhà hèn lắm.

Vậy là con đã quyết? Bà Miền quay lưng bỏ đi. Bước chân vô giác, mắt nhìn đăm đăm về phía trảng hoa bông gàu tím. Vậy là cha con ông cùng một duộc cả. Ông nghe thấy chưa? Hài lòng chưa? Nó sẽ lấy lại danh dự cho ông. Nhưng không phải tất cả.

Bà Miền sải những bước dài bỏ lại Thanh đứng chơ vơ trên cầu đá ong. Tiếng nói của bà xoáy lại phía Thanh rồi mãi mãi trở thành lời thề thiêng liêng mà anh không bao giờ quên được ở bến sông Chanh này.

- Nếu đi vì để xóa thành phần thì đừng. Còn vì đất nước thì mẹ không dám cản con.

Tờ đơn bằng máu đẩy con xa mẹ hơn một chút, có thể xa mãi mãi. Sáng mai con lên đường, mẹ sẽ không tiễn con ở cầu đá ong này. Không phải mẹ không còn thương mà mẹ sợ. Mẹ sợ nước mắt sẽ làm chùn bước chân con, sợ con buồn, không nỡ. Dù con có là thằng trai mười bẩy tuổi thì với mẹ vẫn chỉ là thằng bé nép dưới cánh tay, đứng run run trong gió đợi thả đèn trời. Con có hoài bão, có ước mơ, chứ không còn như thời của mẹ. Mẹ mừng nếu con đã quên chuyện cũ, con đã làm được, đã thả trôi tất thảy mọi thứ để sống thanh thản với mình, với tương lai. Con đừng trách mẹ không đón nhận Sương, rằng mẹ không thương nó. Chỉ là mẹ sợ, sợ mối thù oán ngàn đời như một lời nguyền rủa mà hai đứa không thể vượt qua. Nó quá cay nghiệt quá, khổ con rồi cả nó nữa.

Bà Miền đi thất thểu đến cầu đá ong, đứng chơ vơ một hồi. Mẹ con mình thả được bao nhiêu cái đèn trời rồi hả mẹ? Bất giác bà Miền cúi nhìn xuống, tiếng nói của Thanh trong trẻo vang lên, ánh mắt nó bắt đầu hồ nghi về những điều mẹ nói. Đêm rằm, hai mẹ con thường dắt nhau ra đây, trên cầu đá ong này. Bà khẽ siết chặt tay Thanh. Bà ậm ừ không biết trả lời thế nào, hơn một trăm cái đèn trời? Hơn nhiều nhiều rồi. Sao thầy vẫn chưa về? Câu hỏi ấy cứ văng vẳng đâu đó khiến tim bà thắt lại.

Hôm nay khác mọi ngày, bà Miền đi một mình, chỉ nghe thấy nước sông Chanh âm thầm chảy. Bà Miền lặng lẽ châm chiếc đèn trời. Ánh đèn từ từ bay lên chênh chao gió. Thấy lòng mình thanh thản đến lạ..

*

Thanh ngồi dậy, xốc xốc chiếc áo ướt đẫm bông gàu. Gà đã cất tiếng gáy canh hai, còn mấy canh nữa thôi Thanh sẽ lên đường. Chẳng còn đủ thời gian để giải thích cho mẹ hiểu. Lần này ra đi, dù sống dù chết anh cũng thấy lòng thanh thản. Là thằng đàn ông phải hiên ngang đứng giữa đất trời chứ không muốn lùi lũi trong xó cửa. Đàn ông làng Hạ thưa vắng dần, lớp nọ nối tiếp lớp kia, có người trở về rồi cũng có người đi mãi mãi. Bến Chanh vắng lặng, trong đêm chỉ thấy những bóng trắng lập lòa của đàn bà làng Hạ kéo nhau đứng giữa trời, chờ ngóng, mong đợi. Họ thả lên trời những tiếng thở than, những tiếng cười méo mó. Biết đâu, anh đi rồi Sương và mẹ cũng ra ngoài ấy. Sương bảo, sao anh lại tin vào đèn trời, nó lung linh thật đấy nhưng dễ tắt, mà đất trời mênh mông em chẳng tin vào những điều thơ mộng. Bây giờ, một ngày một phút mình được ở bên nhau là may mắn. Sương cười, kéo tay Thanh chạy mãi trên những trảng bông gàu. Thanh cúi xuống ngắt những bông hoa tím ngắt cài lên tóc Sương. Sáng trong như gương mặt cô tiên xanh mà hằng đêm Thanh vẫn mường tượng. Nhưng Thanh không muốn Sương nhỏ nước mắt xuống dòng sông như cô tiên ấy. Gieo hy vọng biết đâu sẽ làm khổ Sương cả đời. Đường xa vạn dặm.

Anh Thanh. Quay lại thấy mắt Sương lòe nhòe nước, một nỗi tủi hờn dâng lên trong ánh mắt.

- Sao anh không gặp em?

Thanh đứng lặng. Không Sương ơi, anh muốn lắm. Đã bao lần anh chỉ ước được nắm tay em chạy miết trên khúc đê làng, chạy mãi rồi vụt bay lên cùng với chiếc đèn trời. Lỗi tại anh. Anh gieo tình yêu vào chiếc đèn trời, vào cả em nữa. Em nói đúng, đèn thì mong manh, biết đâu gió bão làm dập tắt, biết đâu bay mất tận phương nào. Quên nhau đi Sương. Anh là thằng con trai bạc nhược, lời hứa không chút đáng tin.

Sương ngồi xuống bên Thanh, lặng lẽ lần tìm đôi bàn tay lạnh ngắt của anh áp vào ngực mình. Sương mơ màng nhìn ra phía mặt nước mênh mông. Đã bao lần Sương hỏi Thanh, nước sẽ chảy đi đâu? Hay chỉ loanh quanh giữa đôi bờ, nước cứ chìm dần cùng với những trảng bông gàu màu tím. Sao hôm nay mùi mồ hôi thân thuộc ấp ủ cô hàng đêm lại lạnh giá, chỉ còn ngửi thấy trảng bông gàu buồn ngai ngái.

- Bám cho chặt nhá. Cháu sẽ cõng bà lội qua sông.

Đứa bé gái năm nào ngồi trên lưng Thanh nhông nhông giữa sân đình, tay cầm bông gàu tím phe phất phe phất. Mắt Sương cười long lanh trong nắng.

- Tớ không thích Thanh gọi tớ bằng bà đâu.

Thằng bé ngẩng đầu ngơ ngác. Nhưng tớ đều gọi mọi người như thế. Không, chỉ mình tớ thôi. Cái ngoắc tay đầu đời thay cho lời ước nguyện. Thanh sẽ là con trâu nước đưa Sương qua bến sông Chanh. Qua rồi sẽ về làm dâu nhà Trần Văn. Sương có dám? Sương khẽ gật đầu.

- Sao Sương lại trốn ra đây được? Bên nhà không cấm ư?

Không nói gì, đưa bàn tay mong manh lên che miệng Thanh. Thanh ú ớ, Thanh ngốc nghếch. Sương nén chặt cái lơ ngơ của thằng trai bằng cái hôn đầu.

- Em sẽ đợi anh về.

Thanh dứt môi hôn, mắt anh chao nước. Xin em. Đừng đợi anh, cứ tìm hạnh phúc cho riêng mình. Nơi mũi tên hòn đạn, biết thế nào mà chờ mong. Vậy thì lấy nhau đi, ngay trên trảng bông gàu này. Đêm nay, có đất giời làm ông tơ bà nguyệt, có thảm bông gàu làm đệm êm, nó làm chứng hết. Anh sợ em khổ. Không. Sương lắc đầu. Đôi bàn tay luồn sâu qua làn áo, hơi ấm da thịt Sương thấm vào bàn tay. Sương co người, se sẽ cắn răng. Làm sao thế này Sương ơi? Thanh thảng thốt sờ nhẹ trên tấm lưng cô gái. Những vết trầy xước tróc xương thịt, máu còn rịn ra nơi bàn tay. Anh sẽ giết em mất Sương ơi. Người nhà họ Nguyễn làm sao có thể tha thứ cho em, làm sao sống được…

Sương mỉm cười. Sương nghe thấy đâu đây tiếng quát, tiếng thét, tiếng roi quất xé da thịt. Sương thấy mình quỳ đấy, quỳ giữa sân nhà, đứa con gái tội đồ làm sai lời cha mẹ. Danh dự dòng họ Nguyễn mai này sẽ bị cô thiêu trụi. Sinh ra đã là một vết nhơ. Giết nó đi. Thà nhìn thấy nó chết hôm nay còn hơn nó mang ô nhục về nhà. Muốn làm dâu họ Trần Văn ư? Kiếp sau. Đừng làm con tao nữa. Tao đâu có đứa con như mày. Thầy đánh, mẹ đứng nhìn, mẹ khóc. Mẹ đã từng là con gái, cũng đã yêu thương, chắc mẹ hiểu lòng con. Nhưng mẹ không cản được cơn giận ngút trời của thầy.

- Thầy cứ đánh chết con đi.

Sương vừa cắn răng vừa thét lên.

- Mày nói gì? Nói lại.

Chiều hôm ấy, Sương nép sau lưng mẹ. Sương theo người làng đi xem người ta xử chú Kỳ. Trảng bông gàu nhuốm máu. Mẹ thở dài mẹ dắt con đi về, bỏ lại sau lưng những tiếng hò hét đầy phấn khích. Mẹ nhào đến ôm con, mẹ đỡ lần roi cuối, mắt mẹ nhòa nước. Những lằn roi tứa máu, cô thấy máu trào ra ấm nóng, máu chảy xuống sân. Thôi đủ rồi ông. Đừng ép duyên bọn trẻ. Thầy bất lực nhìn mẹ, vứt chiếc roi xuống sân nhà, ngồi trước bậu cửa, mắt ngầu nước, hai tay ôm đầu. Cả Sương và mẹ đều nhìn thấy thầy run lên, không phải lạnh. Hình như là thầy sợ. Sợ quá khứ vô hình. Thầy cấm Sương yêu Thanh vì không muốn nhắc lại quá khứ. Sương nhào dậy chạy miết vào đêm.

Đêm nay, sự thù hằn sẽ được cởi bỏ. Bằng tình yêu của Sương. Đừng nhìn về quá khứ nữa, để quá khứ ngủ quên, ngủ một giấc dài sau cơn mệt mỏi. Chẳng còn gì quan trọng nữa, lúc này đây Thanh hạnh phúc vì có Sương trong vòng tay, thấy được ấp ôm nhau, được làm vợ chồng son giữa đất trời. Sương đưa tay chỉ lên vầng trời tối âm u. Nhìn kìa. Ánh đèn trời thấp thoáng.

*

Vậy là mẹ không tiễn Thanh qua cầu đá ong. Trời còn chưa tảng sáng chỉ có Sương đứng giữa thảm bông gàu tím ngắt. Hai người đi bên nhau thật chậm trên con đường làng se lạnh. Mặt nước bình lặng hơn bao giờ hết. Thanh nghe thấy tiếng quăng lưới bên kia sông vọng lại. Quay đầu cố tìm một ánh mắt, nhưng bến vắng tanh. Em và mẹ mong anh về. Sương mong manh trong vòng tay anh. Cô tiên xanh bé nhỏ. Thanh sẽ về và đưa Sương qua sông, về làm con dâu dòng họ Trần Văn. Sương có dám? Sương gật đầu. Bao giờ cũng là câu nói nửa đùa nửa thật, nhưng hôm nay cô thấy thiêng liêng đến lạ. Bóng Thanh mờ dần sau bến. Sương quay về thấy bà Miền đứng lặng ngắt sau hàng cây dõi theo. Anh ấy cứ chờ mẹ mãi? Bà Miền gạt nước mắt nhìn Sương. Mẹ không tiễn để nó biết rằng nó phải trở về gặp mẹ. Hai người đàn bà đi bên nhau. Tối nay có thả đèn trời không mẹ? Bà Miền khẽ gật đầu. Lặng lẽ đưa tay ấp lên bụng. Cô tưởng tượng ra những thay đổi rất khẽ trong người mình. Là mầm sống diệu kỳ? Là yêu thương và hy vọng? Nhìn về phía triền sông, những trảng bông gàu tím khẽ vươn lên khỏi mép nước đón ánh nắng cuối đông ấm áp đang lan dần trên bến sông Chanh.

 

 

 

 

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *