Từ đời vào văn

30/6
7:22 AM 2016

THAM LUẬN HỘI NGHỊ VĂN HỌC 30 NĂM ĐỔI MỚI: DI SẢN LỊCH SỬ VÀ ĐỘ LÙI THỜI GIAN

Chúng ta, những nhà văn đang được sống trong những ngày thế kỷ này cũng có nghĩa là đang được sở hữu những tầng quặng quý báu của lịch sử.

                                                                 Nhà văn Trầm Hương (ảnh: Internet)

 Đất nước với bốn ngàn năm văn hiến, hai cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập, những cuộc chiến khốc liệt chống Trung Quốc, chiến tranh biên giới Tây Nam, cuộc chiến giữ biển đảo cha ông để lại, cuộc chiến chống đói nghèo, những ràng buộc tư duy… đã để lại cho thế hệ người đang sống một di sản lịch sử khổng lồ, với máu xương, nước mắt, những trang viết còn bỏ ngõ. Người trong cuộc chưa kịp cảm nhận đã ra đi, lớp hy sinh ngay trên chiến địa, để lại những nỗi niềm, day dứt khôn nguôi, những ẩn số thời cuộc… Người thế hệ sau đi tìm, đồng cảm, hóa thân; đã viết về những người đi trước, thời trước. Với sức mạnh ngòi bút, có nhiều người bị móc lên từ đáy mồ, bị lên án, nguyền rủa; có người được thấu cảm, minh oan, tiếc thương, được phong thánh vì sự đồng cảm, ngưỡng mộ. Để làm nên điều kỳ diệu ấy, cần có độ lùi thời gian…

Thời gian phủ bụi lên lịch sử. Nhưng có những giá trị lịch sử như những viên ngọc quý, âm thầm tỏa sáng, bất chấp cát bụi thời gian. Những trang sử nồng máu oan của người xưa vẫn tươi rói đến hôm nay. Có những con người, sự kiện ngỡ bị chôn vùi vĩnh viễn ngờ đâu sống dậy từ thấu cảm người đang sống. Không phải ngẫu nhiên mà văn học dành chỗ xứng đáng làm sống lại Nguyễn Trãi với Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng Trúc của Nguyễn Đình Thi; Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Kỷ nguyên của Nguyễn Trãi của Trần Thị Thắng… Tố Như khóc Kiều ba trăm năm trước, ba trăm năm sau hay ngàn năm sau, vẫn còn người khóc Tố Như. Vì chết để tái  sinh. Vì sống là nối tiếp cái chết nên những trang sử thấm máu, những phận người oan khuất, những vinh quang và  cay đắng người xưa sống dậy trong tâm thức người hôm nay.

Nền văn học Việt Nam có vị trí xứng đáng, trang trọng và sang trọng dành cho những đề tài lịch sử với những tên tuổi chói sáng: Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Vũ Ngọc Đĩnh… Nhưng từ khi có làn gió đổi mới, nhiều tác phẩm văn học lấy cảm hứng từ đề tài lịch sử đã  cho cái nhìn đa chiều, sống động hơn khi nhìn về quá khứ. Những nhân vật từng là anh hùng dân tộc, áo vải cờ đào như Lê Lợi, Nguyễn Huệ… không chỉ lấp lánh chiều sâu trí tuệ, tài năng quân sự làm nên công nghiệp rực rỡ mà còn có thế giới nội tâm phức tạp, những giằng xé, tham vọng thường tình. Đã có một thời “Phẩm tiết” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp gây nhiều tranh cải. Và nếu như không có độ lùi thời gian thích hợp và cần thiết, bộ tiểu thuyết đồ sộ “Sông Côn mùa Lũ” của nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã không thể xuất bản ở Việt Nam. Không có đổi mới, tiểu thuyết Minh sư của Thái Bá Lợi viết về Nguyễn Hoàng với vùng vẫy thoát khỏi bẫy quyền lực phía Bắc; nỗ lực lập nghiệp, mở cõi phương Nam được dành vị trí trang trọng trong lòng độc giả.  Rõ ràng, để có được những tác phẩm tạo nên độ rung cảm mãnh liệt về đề tài lịch cần có sự liên kết, liên tưởng, đối chiếu, thấu cảm của người sống hôm nay và hôm qua nhiều thế kỷ. Và điều kiện cần phải có là sự cởi mở về  chính trị. Nói một cách công bằng, nếu không có sự đổi mới của Đàng và Nhà nước, chắc chắn không có sự đổi mới của văn học.

 Cũng nhờ có đổi mới mà có dòng văn học sám hối. Những tác phẩm viết về cải cách ruộng đất, về những vấn đề nhạy cảm của lịch sử, thân phận con người… đã được văn học chạm tới. Không ngẫu nhiên mà “Ba phút sự thật” của Phùng Quán, “Cát bụi chân ai” của Tô Hoài thu hút độc giả.

Nhờ  có làn gió đổi mới mà một số tác phẩm dịch của nhà văn các nước Liên Xô cũ, Đông Âu tràn vào Việt Nam, có sức hút và lan tỏa mãnh liệt, ảnh hướng không ít đến phong cách sáng tác của nhà văn Việt Nam, tác động không nhỏ đến nhận thức của công chúng.

Việt Nam mở cửa, cũng mở ra nhiều vận hội mới cho những nhà văn, nhà sử học, chính khách chạm đến những vấn đề thuộc về “cấm kỵ” tromg quá khứ. Hồi ký Hoàng Linh Đỗ Mậu giúp độc giả nhìn thấy được tâm thế của một vị tướng thuộc hàng công thần chính quyền Sài Gòn. Chúng ta phải thừa nhận rằng sự lý giải về sự sụp đổ chính quyền Sài Gòn của người trong bộ máy quyền lực có sức thuyết phục độc giả hơn cái nhìn từ phía người chiến thắng. Thật không thể tin nổi, một nhân vật quyền lực của chính quyền Sài Gòn  từng bị lên án vì tham vọng chính trị, được xem là biểu tượng xấu xa của giới phụ nữ, của sự kỳ thị, từng là nhân vật phản diện của văn học và lịch sử một ngày chễm chệ trên kệ sách với vẻ đẹp đường bệ, rực rỡ, quyến rũ không cưỡng nổi của “Madam Nhu- Quyền lực bà Rồng” của nữ tác giả  Monique Brinson Demery. Quyển sách dấy lên nhiều luồng dư luận ủng hộ và phản đối, khen ngợi và chê bai. Nhưng trên tất cả, điều thu hút độc giả là muốn biết sự thật vệ một con người với nhiều luồng dư luận trái chiều. Qua độ lùi thời gian, độc giả mong muốn có được sự đánh giá khách quan về một nhân vật từng gây nên những dấu ấn và sóng gió của nền Đệ nhất Cộng Hòa. Theo thời gian, nhan sắc của  nữ chính khách nổi tiếng và có nhiều tai tiếng ấy không tàn lụi, nhờ văn học mà thêm quyến rũ, thêm ma lực buộc những người sống sau bà nhiều thập kỷ phải ngó lại, nhìn ngắm chân dung mình. Nhiều tác phẩm nhìn lại để đánh giá công - tội, để minh oan, để giãy bày oan khuất, để phản biện xã hội, để đưa ra cái nhìn trái chiều… xuất hiện trong đời sống văn học ở Việt Nam trong những năm gần đây cũng là đời sống hai mặt của sự đổi mới. Nó đặt ra những câu hỏi thật không dễ dàng giải đáp, cũng rất đỗi ngổn ngang. Nhà nước cởi mở hơn? Độc giả khôn ngoan, tỉnh táo hơn? Mạng xã hội ngày càng tác động mạnh mẽ vào nhận thức và ý thức của độc giả?

Trước di sản quý báu, đồ sộ của lịch sử; nhà văn Việt Nam chúng ta đôi khi không tránh được chạnh trước những tác phẩm văn học viết về những danh nhân Việt Nam. Đó là cái nhìn của nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray  về Nguyễn Trãi trong Vạn Xuân. Đó là Nell Sheehan với sự lừa dối hào nhoáng - về những “bí ẩn” của cuộc chiến tranh ở Việt Nam; là Virginia Morris và Clive Hills với Con đường tới tự do - về đường Trường Sơn huyền thoại; là Larry Berman với Điệp viên hoàn hảo về nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn; là Danielle Trussoni với Rơi xuyên lòng đất; là Wayne Karlin với Những linh hồn phiêu dạt;là  James G. Zumwalt với Chân trần chí thép - quyển sách của sự trung thực và dũng cảm nhìn về cuộc chiến tranh của Việt Nam của một cựu binh Mỹ; là Allen Hassan với Không thể chuộc lỗi; là Deborah Nelson với Phía sau cuộc chiến… Điều gì khiến các độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt những tác phẩm viết về di sản lịch sử Việt Nam là một câu hỏi thật đáng suy ngẫm. Phải chăng độc giả cần có cái nhìn trung thực, khách quan  nhiều chiều hơn từ những nhà văn - học giả? Phải chăng kỹ năng thu thập thông tin, cách viết của các tác giả nước ngoài mới hơn nhà văn chúng ta, trực diện, xoáy vào tim người với những  câu hỏi phản biện. Phải chăng các tác giả nước ngoài có điều kiện, được chính phía Việt Nam ủng hộ khai thác tư liệu hơn?! Phải chăng chúng ta đang sống trên đống vàng của tư liệu lịch sử nhưng lại thờ ơ, vọng ngoại? Phải chăng để  di sản lịch sử được thăng hoa trong văn học, nhà văn chúng ta phải đọc, phải học, không ngừng khổ luyện, kiên trì, bền bỉ trong sáng tạo văn học nghệ thuật. Và hơn tất cả, những nhà văn lao vào  khai thác tầng quặng giàu có từ di sản lịch sử đồ sộ của cha ông rất cần đến sự tiếp sức, động viên một cách xứng đáng và cụ thể. Cần có mũi khoan bén bằng kim cương để khai thác tầng quặng lịch sử quý báu này. Nhiều và rất nhiều câu hỏi còn bỏ ngõ. Tôi không khỏi đắng lòng  nhớ câu thơ của ông Võ Thành Hạo - Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre viết cho con trước lúc giao thừa từ hơn 10 năm trước: “Ta tìm đến mình - Mình lại quên ta”.

Là nhà văn lớn lên sau chiến tranh, tôi cảm nhận sâu sắc sự giàu có từ tầng tầng lớp lớp trầm tích của lịch sử dân tộc. Máu và nước mắt cha ông trong dựng và giữ nước để lại di sản lịch sử khổng lồ cho con cháu. Ẩn số những giọt nước mắt, những phận đời bé nhỏ đằng sau những cột mốc lịch sử là nguồn cảm hứng mạnh mẽ thôi thúc nhà văn cầm bút. Tôi may mắn vì đã thoát chết những ngày Mậu Thân 1968 để thấu cảm mất mát, nỗi đau của những người mẹ, người chị, những người nông dân trên cánh đồng năn lát với sự tha hóa quyền lực để viết “Đêm Sài Gòn không ngủ”. Tôi cám ơn độ lùi thời gian, nhờ sinh sau hơn nửa thế kỷ mà có điều kiện học hành, có điều kiện gõ cửa để thâm nhập vào cánh cửa tòa thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo tỉnh Bến Tre để viết “Đêm trắng của Đức Giáo Tông”. Tôi cám ơn mình được mẹ sinh ra đời sau gần bốn thập kỷ biến động mà bà Jeannette đã sống, để có điều kiện lặn sâu vào nhiều cuộc đời, có điều kiện để sống và viết bộ tiểu thuyết hai tập ngàn trang “Trong cơn lốc xoáy”. Vì rằng nếu bị cuốn vào lốc xoáy như Jeannette, số phận tôi cũng xoay tròn theo thời cuộc như bà, làm sao tĩnh tâm để thấu cảm với nỗi đau, nước mắt mà trải lòng lên trang giấy.

Lùi lại để thấu hiểu, bao dung, thông tuệ, tự do hơn khi viết về quá khứ. Quả thật, khi sống trong thời bao cấp, ta sẽ không cảm nhận những điều khủng khiếp trong thời ấy như chính con, cháu chúng ta đã được hưởng những thành tựu đổi mới. Khi đã làm mẹ, được nuôi con bằng những sản phẩm văn minh và tiện ích thời bình; tôi mới thực sự thấu cảm công lao to lớn của những bà mẹ Việt Nam, vừa cày cấy, vừa gánh con chạy loạn. Khi chăm bẳm từng miếng ăn giấc ngủ cho con, thức trắng đêm canh con đau bệnh, tôi mới cảm nhận một cách sâu thẳm nỗi đau mất mát của những bà mẹ khi con mình bị quăng vào cổ máy chiến tranh. Khi tổng thống Obama sang Việt Nam, ông được chào đón nồng nhiệt cũng là nhờ có độ lùi thời gian để hai bên nhận ra bao giờ hòa bình cũng tốt đẹp hơn chiến tranh. Lòng chân thành cũng cần có thời gian. Trong không khí cởi mở, thân thiện, người ta ngần ngại nói về quá khứ nhưng tôi xin được chuyển đến  ngài Tổng thống một thông điệp rằng, khi tôi đi từ địa đầu Tổ quốc đến mũi Cà Mau, gặp hàng ngàn  bà mẹ Việt Nam anh hùng, không một bà mẹ nào nhắc đến căm thù mà chỉ có những ký ức rưng rưng nhớ thương con, là khoảng lặng nước mắt, là niềm ao ước nếu con mình còn được sống. Nỗ lực tẩy độc dioxin và tháo dỡ bom mìn cũng cần có thời gian và những tấm lòng. Với những ý thức hệ và xu hướng chính trị ảnh hưởng, ràng buộc  từng thời kỳ lịch sử; có thể nhiều giá trị bị đảo lộn nhưng tôi tin những giọt nước mắt từ số phận con người là điều có thật. Nước mắt rơi ngày trước, thế kỷ trước, kỷ nguyên trước thấm ướt vào từng trang viết của ngày sau, thế kỷ sau, kỷ nguyên sau. Đó là sự tiếp nối của mạch nguồn dân tộc. Sứ mạng ấy đặt trên đôi vai của những nhà văn.

Trầm Hương

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *