Chuyện văn chương

16/10
10:32 PM 2019

GIỚI THIỆU 3 TRUYỆN NGẮN CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC

“Khi hái thuốc, sư tổ Huyền Quang nghĩ về ca chữa bệnh cứu người đêm qua. Đã mấy ngày rồi, ông rời chùa Hoa Yên sang Am Dược, ông đang dồn tâm sức vào nghiên cứu, luyện một loại thuốc chữa chứng bệnh mà dân gian quen gọi là cảm nhập tâm…”

TRÚC NGUYỆT

                                            Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc

          Một sáng mùa thu, trời còn tinh mơ, sư tổ Huyền Quang sau những phút ngồi thiền, ông bước ra khỏi Am Dược. Bên ngoài, cây cỏ ướt sương đêm, tuy hơi đất, sương núi còn giăng mù nhưng đôi mắt còn tinh anh của ông vẫn đủ thấy vòm trời thu xanh non buổi sớm đang dần nhuốm hồng khi vầng nhật chồi lên ngang đầu núi, chỉ cách ông trong tầm tay với. Ông khẽ giơ tay vươn người, và dường như giây phút này, ông quên mình là người tu hành, ngỡ đang là đấng anh hùng quân tử có trí nuốt núi ôm biển. Ông bước lên phía trước vài bước, chợt một loài cây thuốc đập vào mắt ông, làm ông bừng tỉnh thoát ra khỏi ánh hào quang, trở về với thực tại. Ông nghĩ, đây là loài thuốc quý, ta phải hái ngay, mà tại sao mọi ngày ta lại không thấy nó nhỉ, mặc dù nó ở cách Am Dược của ta vài chục bước chân?...

          Khi hái thuốc, sư tổ Huyền Quang nghĩ về ca chữa bệnh cứu người đêm qua. Đã mấy ngày rồi, ông rời chùa Hoa Yên sang Am Dược, ông đang dồn tâm sức vào nghiên cứu, luyện một loại thuốc chữa chứng bệnh mà dân gian quen gọi là cảm nhập tâm. Sau nhiều năm làm thuốc, chữa bệnh cứu người, đi đây đi đó trong thiên hạ, ông hiểu đây là chứng bệnh cực kỳ nguy hiểm mà người nghèo lam lũ thường gặp phải. Không có gì lạ cả, người dân lao động, nhất là nông dân nghèo khó, bất kể gì mưa nắng, gió bão, làm lụng quần quật quanh năm, ăn uống chỉ quanh quẩn rau dưa, tương cà, lại chẳng mấy chú tâm đến việc dưỡng sinh, gặp cơ địa bất lợi là đổ bệnh ngay. Mà bệnh đến như núi đổ, thuốc thang chẳng có tiền, sinh mạng người coi như thí cho trời đất, may rủi… Tối qua, ông đã chế xong thuốc, khi đang lật giở mấy cuốn sách y cổ xem lại đôi chỗ còn ngờ ngợ, thì chú tiểu hớt hải từ ngoài chạy vào am báo tin có con bệnh nguy cấp từ làng dưới chân núi chuyển lên. Ông còn chưa kịp hỏi chú tiểu thì ông lực điền khiêng võng, một người đàn bà nạ dòng và một cô gái trẻ đi theo, chừng là người nhà con bệnh đã vào đến nơi. Ông vừa nghe người đàn bà khóc mếu kể bệnh của con mình và cầu xin ông ra tay tế độ cứu mệnh, vừa xem bệnh. Cậu con trai chừng mười ba mười bốn, người lạnh toát, mắt nhằm nghiền, hơi thở thoi thóp, đứt đoạn. Ông vừa xem bệnh, bắt mạch vừa thầm chẩn đoán, đúng là ca bệnh mà mình có thể thử nghiệm loại thuốc vừa chế xong. Ông không dám chắc cậu bé có qua khỏi không, nhưng đã đến nước này thì một liều ba bẩy cũng liều, may ra…. Quyết đoán, rồi ông làm luôn. Cô chị gái của con bệnh vừa khóc lạy ông vừa luôn miệng một điều sư tổ, hai điều sư tổ rón tay làm phúc… Ông phải bảo họ đừng làm thế, mà hãy cố gắng bình tâm, đừng làm rối lên, để ông tập trung vào việc cứu chữa. Bảo họ vậy thôi chứ ông hiểu lòng họ làm sao bình tĩnh được. Chỉ có người tu hành coi sinh mệnh như mây khói mới có thể bình tâm trong lúc nước sôi lửa bỏng như thế này. Trời Phật phù hộ độ trì, may quá thuốc mới công hiệu, người cậu bé ấm dần lên, hơi thở điều hòa, qua được cơn nguy kịch. Cậu bé được đưa về Nhà Tổ chùa Hoa Yên tiếp tục thuốc thang. Ông định bụng, lát nữa sẽ rời Am Dược về Hoa Yên, mang theo ít thuốc đã làm xong…

          Về đến Nhà Tổ, ông xem bệnh và bắt mạch lại cho cậu bé, lòng cảm thấy yên tâm vì con bệnh đang hồi phục. Rồi ông kê đơn, điều chỉnh một vài vị đưa cho chú tiểu bốc thuốc và căn dặn người nhà. Bà mẹ bảo cô con gái cố ghi nhớ lời Lão tổ dặn, chứ bà đầu óc u mê chẳng thể nhớ nỗi gì. Tối qua, vừa vội vàng, vả lại với bản tính của người tu hành, ông không để ý nhiều đến công việc ngoài đời, sáng nay, ngồi bình tâm, đối diện với hai mẹ con, ông mới nhận thấy, cô con gái khá sắc nước. Đôi mắt cô gái đen láy, sâu thẳm, ẩn chứa sự quyết liệt. Hình như chỉ một thoáng mắt ông và mắt cô gái rõi vào nhau, khiến ông cảm nhận thế. Ông sực mình, ngước cái nhìn lướt trên đầu cô gái. Cô gái quỳ nghe ông căn dặn như nuốt lấy từng lời. Xong việc, ông lặng lẽ trở lui, bỏ mặc hai mẹ con, còn nghe phía sau lưng tiếng hai người luôn miệng “Mô Phật”, “Bạch Tổ”. Chú tiểu đã pha sẵn ấm trà mộc, bưng ra. Ông khoan thai rót một chén, đưa lên nhấp. Hương trà thanh khiết khiến đầu óc ông khoan khoái, minh mẫn. Ông rõi mắt ra ngoài xa, bên dưới là đường tùng, những cây xích tùng, thủy tùng được trồng từ thời Điếu ngự giác hoàng Trần Nhân Tông xanh tốt. Còn phía dưới nữa, xanh mờ xa xa là làng xóm. Chợt ông như cảm thấy mùi khói bếp thơm nồng, tai như thoảng nghe tiếng chó sủa, tiếng lợn đòi ăn. Những âm thanh, hương vị của đời sống trần tục vẩn lên trong lòng ông. Khác mọi lần, ông không kiềm chế, mắt mơ màng, thả hồn về chốn quê nhà…

          Gần tám mươi năm về trước, có một cậu bé ra đời nơi hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Cậu bé Đạo Tái, thuộc dòng dõi quan lại, song đến thời cha cậu là Lý Quang Du, gia cảnh không còn bề thế nữa. Ngay từ khi mới sinh, Đạo Tái đã có tướng kỳ dị. Cha cậu nhìn tướng mạo con mình thì lấy làm mừng bởi ông thấy ở đó nét dị thường, báo hiệu sự xuất chúng khác thường sau này. Còn người mẹ, bà không phát hiện thấy điều gì may mắn ở sự kỳ dị của con, mà chỉ cảm thấy lo lắng cho việc dựng vợ, sinh con đẻ cái về sau. Cậu bé Đạo Tái càng lớn, sự kỳ dị trong tướng mạo không bớt, bù lại, cậu vô cùng thông minh dĩnh ngộ, có chí hướng học hành. Đạo Tái nổi tiếng khắp vùng về tài học rộng biết nhiều. Người cha thì chỉ muốn cho con học hành, thi cử đỗ đạt, khôi phục lại danh gia, tiếng tăm dòng dõi. Người mẹ lại chỉ nhăm nhăm dạm vợ cho con, vì bà luôn bị ám ảnh bởi tướng mạo kỳ dị của con. Dùng dằng mãi bởi chí cha, ý mẹ khác nhau, rồi đến năm mười lăm tuổi, gia đình cũng dạm vợ cho cậu. Nhưng ngay lần đầu, bên nhà gái đã từ chối khéo. Người ta không nói toạc ra, song cha mẹ và bản thân Đạo Tái cũng hiểu được ngụ ý bên trong, người ta chê cậu xấu trai, dị dạng. Cậu chỉ tự ái đôi chút và cho rằng, bên nhà gái tầm thường, không thấy được vẻ đẹp trí tuệ ẩn chứa trong cậu, không thấy được sự xuất chúng sẽ bộc lộ nay mai. Cậu tự an ủi, rồi sẽ có ngày ta sẽ gặp được người nhận biết, trân trọng và khâm phục tài năng của ta. Dân gian chẳng có câu " Gái tham tài , trai tham sắc " là gì. Bần hàn đến như thằng mõ ở làng còn lấy được vợ, nữa là mình, dòng dõi quan lại, học rộng tài cao, chí trùm thiên hạ!

          Sau đám ấy, cha mẹ cậu mấy lần định đánh tiếng đám này đám nọ, nhưng cậu đều nằng nặc không chịu. Gặng hỏi mãi, cậu mới chịu nói, cậu chỉ muốn được cưới cô Mơ, con gái một thấy đồ nho ở làng bên. Hồi nhỏ, khi mới ê a Tam Tự Kinh, cậu có theo học ông thầy này, chẳng bao lâu thì hết chữ thầy, đành phải theo thầy khác. Cậu để ý, cô Mơ hơn cậu hai tuổi, sắc nước, phổng phao nõn nà, hơn đứt hẳn đám con gái trong vùng. Thêm nữa, cô có đôi mắt lá răm đen láy, lúng liếng như hút hồn người ta, mỗi bước đi, mỗi cử chỉ, đôi trái đào tơ căng mẩy như quẫy trong yếm thắm. Từ lâu rồi, cậu thầm yêu trộm nhớ cô Mơ. Cậy cha mẹ dạm hỏi cô Mơ, cậu thầm nghĩ, thế mới xứng đôi vừa lứa, trai anh hùng sánh gái thuyền quyên. Người đẹp như cô Mơ, gia đình như ông đồ nho kia mới thấy được tài cán của cậu. Nhưng rồi sự thể diễn ra không như cậu nghĩ. Ông thầy đồ kia mừng lắm, đồng ý gả ngay, song cô Mơ lại quầy quậy chối từ. Thoạt đầu, hai nhà và cả cậu đều nghĩ, cô Mơ chối từ chẳng qua chối vờ làm cao lấy giá. Thế nên, khi cô Mơ nhất nhất cự tuyệt, thì mọi người hết sức ngạc nhiên. Đám học trò trong làng chơi với cậu dò hỏi và báo cho cậu một tin, thật như sét đánh ngang tai, cô Mơ phải lòng một anh kép hát đẹp trai người trong vùng, đang lưu diễn nay đây mai đó. Ông bà đồ bảo cậu cứ yên tâm, sẽ thuyết phục cô Mơ bằng được. Cha mẹ cậu lấy làm bực bội, có ý cho rằng ông đồ là người có chữ mà không biết cách dạy con, và người như cô Mơ có bỏ đi cũng không tiếc. Cậu không nghĩ thế. Quả thật, lần bị cự tuyệt này, thoạt đầu cậu cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, nhưng là người trẻ tuổi, sớm đọc nhiều sách, hiểu chữ Thánh hiền nên sau cú choáng váng, cậu nhanh chóng vỡ vạc, tự nhủ mình nên tôn trọng tình cảm riêng tư, nên hiểu nỗi lòng cô ta. Ở đời, chuyện quả kiếp nhân duyên là vậy. Người đời chẳng dạy rằng Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên là gì, và cũng chẳng phải vô cớ mà nhà Phật tự răn mình, răn đời Tu là cõi phúc, tình là dây oan! Có điều, cậu cảm thấy thương cô Mơ, bởi cậu linh cảm rằng, cô Mơ cứ nhất nhất lăn lóc với mối tình ấy rồi cuộc đời cô cũng sẽ chẳng ra gì. Cậu lựa lời xin với cha mẹ thôi không hỏi cô Mơ làm vợ cho cậu nữa.

          Quả nhiên, khi cậu cố quên hình bóng cô Mơ để sôi kinh nấu sử chờ ngày ứng thí thì được tin cô đã trốn nhà theo chàng kép hát bảnh trai dẻo mỏ đi đâu không biết. Cậu thở dài, ngửa mặt nhìn trời mà than. Với cô Mơ, thôi như thế là xong một kiếp người. Không báo hiếu cha mẹ, không nuôi chồng làm nên sự nghiệp, còn việc sinh đẻ, dạy dỗ con cái nên người hay không thì còn chưa rõ, chỉ được mỗi cái tình, nhưng ôi thôi, tình chỉ là cái tình tang!...

          Dường như, ngay từ độ ấy, cậu đã ngộ ra được một điều gì đấy xem như chân lý ở đời, dẫn dắt cuộc sống sau này. Cậu chỉ dồn sức vào chuyện dùi mài sách vở. Khoa thi hội năm Bảo Phù thứ ba, triều Trần Thánh Tông (1275), Đạo Tái đỗ Trạng Nguyên. Thông thường, nếu là người có vợ, khi vinh quy bái tổ sẽ là cảnh võng anh đi trước võng nàng theo sau, còn như chưa có vợ thì sau đại đăng khoa cũng sẽ là tiểu đăng khoa, nhưng với Đạo Tái lại không tất. Lúc thong dong trên đường cái quan về làng, thoàng trong suy nghĩ, Đạo Tái mường tượng, đi sau võng mình là võng của cô Mơ. Chỉ thế thôi, còn sau đó, tất cả là niềm vinh hạnh cho cha mẹ, dòng họ, làng xã choán ngợp tâm hồn chàng. Những ngày ở quê với cha mẹ chờ ngày đi làm quan thiên hạ, niềm vinh hạnh vơi đi thì nỗi cô đơn trong lòng chàng lại lớn dần lên. Chàng cứ tự hỏi, sao cô Mơ kia không biết nhìn người, cái bền vững của đời người thường tiềm ẩn nơi nội tại, đâu phải ở vẻ hào nhoáng bên ngoài. Thế nhưng, cái phù du thì bao giờ cũng hấp dẫn, nó như ngọn lửa cứ bùng lên, như rượu nồng tỏa trên miệng chén, như ánh lân tinh xanh lét ma quái trong đêm đen, làm con người ta mờ mắt, lú lẫn lý trí, xô dạt người ta vào với nhau, bất cần hậu quả và cái đó được người đời gọi là tình yêu.

          Chàng có tình yêu hay không? Đã nhiều lần chàng tự vấn mình như vậy. Rõ là chàng có mối tình của mình. Hễ thấy mặt cô Mơ, hay chỉ là mơ tưởng về cô ta hay thôi, chàng đã thấy lòng mình bùng lên ngọn lửa, thấy môi miệng mình đượm vị rượu nồng, thấy đầu óc phiêu diêu không theo sự điều khiển của lý trí. Không là tình thì còn là chi nữa? Khi chưa học hành đỗ đạt thì chàng còn kìm nén được. Nay công thành danh toại, ước vọng ấy lại bùng phát, thiêu đốt, hành hạ chàng. Nhưng trời đất trớ trêu thay, cho chàng sự hanh thông hơn người thì lại lấy đi của chàng vẻ bình thường của một con người. Tướng mạo kỳ dị của chàng che khuất sự hanh thông, mà không phải người thường nào cũng phân biệt nổi, nhất là đàn bà. Nếu làm quan, chàng sẽ phải lập gia đình, lấy vợ sinh con như ngàn vạn đàn ông khác. Không thể không như thế! Song chàng không đủ can đảm, không dám hỏi vợ một lần nữa vì sợ bị từ chối, đã làm quan Trạng thì không thể bị từ chối như kẻ thư sinh bạch diện. Và chàng tự biết, nếu có lấy được vợ, rồi suốt đời, chàng cũng chỉ sống với hình bóng cô Mơ trong tâm tưởng. Và còn bởi, chàng không chiến thắng nổi hình hài của chính mình. Vậy thì chỉ còn cách sống một cuộc đời khác người thường, xa lánh bụi trần mà thôi?!...

          “Bạch thầy” – chú tiểu khẽ thưa khiến ông bừng tỉnh – “Người nhà bệnh nhân muốn đưa bệnh nhân xuống núi về nhà… ý Thầy thế nào ạ?”. Ông khẽ xua tay: “Bảo với họ… để ta theo dõi bệnh thêm vài ngày nữa… đề phòng bệnh biến chứng… Chuyện thuốc thang cứ làm như ta đã dặn”. Chú tiểu đi rồi, ông lại thần người ra, tự vấn, ta giữ họ lại thêm vài ba ngày nữa làm gì nhỉ, thực ra, bệnh cậu bé đã thuyên giảm nhiều, có thể cho về nhà tĩnh dưỡng được rồi? Phải chăng ta lưu luyến gì họ? Họ cũng như bao người bệnh khác mà ta từng cứu giúp?...

          Huyền Quang nghĩ đến pháp danh của mình, nghĩ đến ngày mình quyết định từ bỏ chốn quan trường và cuộc đời trần tục, xuất gia đầu Phật. Khi ấy, nhân một lần theo Quan gia (vua Trần Nhân Tông), ông gặp Pháp Loa ở chùa Vĩnh Nghiêm. Tuy Pháp Loa trẻ tuổi hơn ông nhiều lắm, nhưng có lẽ sớm giác ngộ, nên ông đã nhận thấy ở vị cao tăng này sự siêu nhiên tịnh độ đến mức hút hết tâm trí ông. Và dường như ngay lập tức, ông linh cảm mình sẽ theo con đường của Pháp Loa thiền sư. Sau khi nghe Pháp Loa thuyết giảng, ông lĩnh hội được sự minh triết ở đó, và thấy rằng, lòng mình đã hường về Đức Phật, hướng đến tư tưởng cao siêu từ bi hỉ xả của nhà Phật rồi. Rời quan trường về tu tại chùa chỉ còn là thời gian nữa mà thôi. Và chặng đường tu luyện dài dằng dặc dần đi qua, không nhẹ tựa lông hồng như lúc đầu ông nghĩ. Để từ bỏ những ham muốn, thói quen trần tục, ông đã phải chiến đấu thực sự với bản ngã của mình, và để thắng được mới cực khổ làm sao! Các vị tiền Tổ thay sau khuất bóng. Hương Vân Đầu Đà Trúc Lâm Điều Ngự (Trần Nhân Tông) và Pháp Loa thiền sư nơi niết bàn có thể mỉm nụ cười nhà Phật mà hài lòng vì ông – vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm đã giác ngộ và truyền bá tư tưởng của dòng trong loại chúng sinh. Ở cái tuổi bảy sáu, trụ trì nơi Yên Tử, ông thấy đầu óc mình vẫn minh mẫn lắm, nhưng sương khói đã phủ ánh nhìn, cơ gân đã dão, dòng máu trong huyết mạch không còn sôi sục như thuở nào nữa, tuy chưa nguôi, song ông đã có thể yên tâm, thư giãn, buông lỏng cơ gân không cần phải kiềm chế, mà chờ cái ngày Phật gọi theo hầu. Vậy mà, dạo này tự nhiên ông thấy lòng mình chộn rộn, cứ như đang chờ đợi một cái gì đấy, là lạ…

          Một buổi sáng, sư tổ Huyền Quang thong thả bách bộ trong sân chùa Hoa Yên, rồi chợt thấy lòng mình phấn chấn, ông quá bộ đi dạo theo đường tùng xuống sâu dưới sườn núi, nơi mà lâu nay ông không đặt chân tới. Cây gậy trúc mấu trong tay ông không rờ rẫm mà linh hoạt hẳn lên. Chợt ông nghe phía dưới một chút có tiếng gì như là tiếng người thở dốc vẻ nặng nhọc lắm. Dừng trên bậc đá, ông nhìn xuống, thấy một người đặt đôi thùng gánh nước trên quãng đất khá bằng phẳng. Người đó khẽ vặn người cho đỡ mỏi và nhìn dáng vẻ, cử chỉ của người đó, ông đoán là đàn bà, mà không chừng còn là một cô gái thanh tân. Người đó vuốt chiếc khăn mầu thâm đất choàng kín đầu xuống vai, để lộ gương mặt đàn bà, rồi cởi tung khăn, lau mồ hôi trên mặt và cổ. Đúng là một thiếu nữ. Tất cả những cử chỉ đầy nữ tính ấy không qua được ánh mắt già nua sương khói của ông. Chợt cô gái ngước nhìn lên và bắt gặp ông từ trên cao nhìn xuống, cô lúng túng choàng lại chiếc khăn lên đầu, nhấc đòn gánh lên vai thì thấy ông giơ tay làm cử chỉ hãy khoan, cứ nghỉ đi, nên cô gái lại thôi. Ông xuống theo từng bậc đá và cảm thấy bước chân mình không bình thường, tuy nhiên, ông cố gắng giữ vẻ khoan thai. Cô đứng, ngước mắt lên, chờ đợi và dường như ông cảm thấy cô nhấp nhổm định chạy phăng lên đỡ ông dìu xuống vì mấy lần ông vấp chân. Rồi cuối cùng, ông cũng xuống tới nơi cô gái đỗ gánh. Cô gái cúi đầu “Bạch sư cụ”. Ông nhìn cô gái, khuôn mặt bị chiếc khăn chùm thâm che khuất chỉ lộ đôi mắt to đen và chút vầng trán trắng mịn, thấy như quen quen, rồi lại nhìn gánh nước, đôi thùng đều mức già lưng, phủ lên mặt một tàu sen úp, vừa che bụi đường vừa làm cho nước đỡ sóng, hỏi cô gái: “Nữ thí chủ từ đâu đến? Mang nước đi đâu?”. Cô gái cúi đầu e lệ: “Bạch sư cụ… Con tên là Bích… Đào Thị Bích ạ… Nhà con ở xóm Giếng, ngay dưới chân núi này… Chắc sư cụ chưa hạ sơn đến đấy bao giờ nên không biết… Xóm con có một cái giếng nổi tiếng nước ngọt, pha trà thơm ngon nhất cả vùng… U con bảo, từ nay mỗi tháng đôi lần gánh lên núi hầu sư cụ và nhà chùa nước pha trà… Hình như sư cụ không nhận ra… sao ạ?”. Cô gái cởi chiếc khăn quàng đầu bảo: “Giờ hẳn sư cụ nhận ra!.... Mới tháng trước, em trai con gặp bạo bệnh, u con và con cùng người nhà võng lên núi phiền sư cụ cứu giúp, gặp thầy gặp thuốc mà qua khỏi. Cả nhà con nguyện đội ơn tái sinh suốt đời không dám quên!”. Ông nhớ, khoát tay bảo: “Không phải như thế… Mà cũng không cần thế… Nhà chùa coi việc giúp người làm việc thiện, cứu nhân độ thế là bản tính của mình… Không ơn huệ chi đâu!...”. Cô gái cúi gằm, thưa: “Bạch. Không dám ạ!... Dẫu sư cụ và nhà chùa không xem làm trọng, nhưng mà… về phần bản thân gia đình con vẫn luôn đội ơn trời bể ạ!”. Ông khẽ cười: “Thôi được! tùy thí chủ… Dẫu sao ta cũng cảm ơn nhớ tói, mang cho nước ngon nấu trà… Nhưng lần này thôi nhé… Sau không phải vất vả thế… Đường núi hiểm trở khó đi, mà nữ thí chủ thì… yếu sức”. Ông định nói còn trẻ, song kịp nói chệch đi. Cô gái hồn nhiên: “Bạch sư cụ… Con khỏe lắm… U con thường bảo con là gái mười bảy bẽ gãy sừng bò mà!”. Ông suýt bật cười thành tiếng: “Ơ… vậy à! Thôi bây giờ nữ thí chủ hãy cất gành theo ta lên chùa”. Ông đi trước, cô gái gánh nước theo sau. Chỉ vài chục thước là lên đến sân chùa mà ông trèo đã run chân, thế mà cô gái gánh như không, lại vừa đi vừa ríu ran đủ thứ chuyện. Cô bảo cha cô trước là thầy đồ, nhưng yểu mệnh mất sớm, nếu không thì giờ cô cũng viết được chữ Nho, rằng tuy là phận gái nhưng cô ham thích học lắm. Ông nghe, chỉ ầm ừ qua chuyện. Tự nhiên ông nghĩ, sao ngày xưa, cái cô Mơ kia cũng là con nhà tử tế có học hẳn hoi mà không được như cô gái này, lại không yêu người nhiều chữ, đi say mê anh kép hát dẻo mỏ? Âu cũng là quả kiếp nhân duyên mà nên cả thôi!... Ngần ngừ một lát, ông ướm hỏi: “Thế nhìn tướng mạo ta, nữ thí chủ không thấy… gì sao? Cô gái tròn mắt vẻ không hiểu: Sao cơ ạ… Con thấy như tiên ông giáng trần cứu thế… Con mạo muội nghĩ…. lúc còn trai trẻ, hẳn sư cụ thông minh dĩnh ngộ lắm!.. Ông nghe mà chấn động trong lòng, và cảm thấy mặt mình nóng lên. Suốt một thời trai trẻ, ông chưa bao giờ được nghe một lời khen về diện mạo mình như thế, nên ông mang mặc cảm về tướng mạo kỳ dị của mình ngàn ấy năm trời đã thành quen, nay bỗng dưng vậy, ông bỡ ngỡ như cậu bé mới lớn. Ông hít một hơi thật sâu, phẩy tay bảo: “Thôi nữ thí chủ làm đi”.

          Đổ nước xong vào chum, cô gái còn lau chau kể đủ thứ chuyện ở xóm của cô, ông nghe câu được câu mất. Nhìn dáng vẻ trẻ trung, thanh tân, hồn nhiên của cô gái, ông hồi tưởng lại tuổi trẻ của mình ở quê nhà. Giá như ông không học hành đỗ đạt, không tình nguyện vào cửa thiền phụng sự Đức Phật, mà chỉ là một anh nông phu thuần phác, thì có lẽ bây giờ cũng con đàn cháu đống, có đứa áng tuổi như cô gái trẻ kia. Cô gái chào ông, vẻ như dùng dằng xuống núi. Ông đứng ở sân chùa nhìn cô gái quẩy đôi thùng không ngúng nguẩy men bậc đá xuống, cứ như làm dáng, làm duyên với ai ấy… Ông mỉm cười một mình, nhìn trời đất, cây cối thấy xanh non đằm thắm lạ. Ông cứ đi đi lại lại nơi sân chùa, không để tâm đến thời khắc trôi qua. Mặt trời đằng sau lưng đã khuất núi tự khi nào chẳng rõ. Sương núi dâng lên tỏa hơi lành lạnh. Ngay trước mặt, trăng thượng thuyền như con thuyền tròng trành trên vòm trời làm vành trăng nhỏ cũng sóng sánh trong khuôn miệng chum đầy nước. Tự nhiên tứ thơ nảy trong óc, rồi ý, rồi lời ào ạt đến. Ông lẩm nhẩm đọc thành tiếng: “Vằng vặc trăng mai ánh nước/ Hiu hiu gió trúc ngâm sênh/ Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ/ Mâu Thích Ca mà thú hữu tình”. Tối ấy, khác mọi ngày, ông không làm sao tập trung tư tưởng, ý nghĩ hướng về Đức Phật khi tụng kinh.

          Sư tổ Huyền Quang thấy mình đang vân du tới một miền non xanh nước biếc, chim chóc líu lô. Đang bỡ ngỡ nhìn ngắm cảnh sắc và tự hỏi đây là miền đất nào thì ông chợt thấy mấy khóm trúc gần nơi mình đứng khẽ rung rinh và một người đàn bà hiện ra, ăn vận như một nữ sĩ, hỏi ông: " Cảnh mới nhưng người xưa, Huyền Quang đại sư có nhận ra chăng? ". Giọng nói quen quen, như ông đã từng nghe nhiều lần. Ông ngập ngừng: “Nữ thí chủ…”. Người đàn bà như là đang cười nụ: “Thế là đủ biết đại sư vẫn chưa nhận ra người cũ rồi. Vậy… thiếp xin mạn phép dùng tên tục… Đạo Tái…. Chẳng nhẽ chàng vẫn chưa nhận được tiện thiếp là ai ư?”. Ông tròn mắt, thốt lên: “Cô Mơ!... Thôi đúng là…. Người xưa… Có dễ đến dăm mươi năm rồi mới thấy đây… Nhưng mà… những tưởng kiếp truân chuyên đã giải, người khuất bóng lâu rồi?”. Người đàn bà e lệ: “Vậy là không uổng… Vì thiếp mà chàng ôm hận suốt đời… Có lẽ khi xuống tuyền đài cũng chưa tan?”. Ông chợt ý thức thân phận mình, nghiêm nghị: “Nữ thí chủ nhầm rồi… Bần tăng đã rửa sạch bụi trần… Dốc lòng theo Đức Phật…”. Người đàn bà khẽ ngúc ngắc đầu:  "Nhầm ư? … Thiếp không nhầm đâu… Có phải vừa mới đây thôi, chàng vẫn nặng lòng với bụi trần?... Vằng vặc trăng mai ánh nước. Hiu hiu gió…”. Ông sửng sốt ngắt lời: “Nữ thí chủ…. biết bài thơ của ta ư? Ta cảm hứng mới nhẩm trong óc, chưa viết ra và cũng chưa đọc cho một ai… Vậy mà…”. Người đàn bà khẽ cười: “Thế chàng quên rằng thiếp siêu hình, là người của cõi khác rồi ư?”. Ông sượng sùng, bẽn lẽn cứ như người làm điều gì xấu bị bắt quả tang: “Phải chăng, nàng… nàng nhập vào, xui khiên cô gái xóm Giếng đến thử lòng ta?”. Người đàn bà không trả lời, hỏi lại: “Chàng nghĩ như thế ư?... Thì cứ cho là vậy thì đã sao!...”. Ông thở dài não ruột: “Thôi… dầu sao ta cũng cảm ơn nàng… giúp ta hiểu rõ lòng mình… Già nửa đời người từ bỏ vinh hoa phú quý, những tưởng giũ sạch được bụi trần… ai ngờ đến lúc nghĩ mình đắc đạo… lại hóa ra vẫn thơ ngây, ham hố… Ôi kiếp trần gian, căn quả mới nặng nề làm sao! Chả trách… Đức Phật gọi ngàn vạn người theo nhưng tới bến không đầy nửa mống”. Người đàn bà cảm thông: “Xin người đừng tự dày vò mình như thế!... Ngay thiếp đây sớm đa đoan, chịu đủ mùi đắng cay mặn chát trần đời cũng không đến mức phải trách mình như vậy. Mình làm mình chịu. Thế mới là can đảm, thực lòng… Ngay cả những người đã từng trót bị vấy bẩn, Đức Phật cũng không xa lánh, bỏ rơi, chỉ cần có tâm phục thiện và gắng sức làm theo thì chẳng cần phải khổ hạnh, căn chay niệm Phật… Thiếp hiểu Phật tại tâm là vậy , thấu thế nào là thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ…. cũng là vậy!”. Ông thẫn thờ như tự nhủ mình: “Không ngờ… người ấu trĩ lại là ta… Giữ chay tịnh nhưng tâm…”. Thấy ông bỏ dở chùng câu than, người đàn bà an ủi: “Được Đức Phật gọi theo ngài nhiều năm nay, bản thân ngộ thêm bao điều mà trước đây mù mờ sáng tối… Người như đại sư rồi thế nào cũng tới được bến thanh minh.. Chỉ có điều, với sự rối lòng vẩn trí như vừa rồi, đại sư sẽ mang tiếng với hậu thế đấy. Và cũng không dễ gì rửa được…!” Ông điềm tĩnh: “Đa tạ lời chỉ giáo. Giờ thì ta chẳng quản ngại gì, kể cả tai tiếng với người đời… Trời đất chắc thấu hiểu cái tâm của ta!”. Người đàn bà biểu lộ sự hài lòng: “ Vậy là cuộc tái ngộ với người xưa không uổng. Thời khắc đã mãn… Hẹn gặp lại ở nước Phật!...”. Ông còn chưa kịp định thần để nói lời tiễn biệt thì chớp mắt người đàn bà đã mờ nhân ảnh không thấy đâu nữa. Ông tần ngần: “Kìa… Sao lại vội vàng làm vậy!”.

          Huyền Quang mở bừng mắt. Ông nhìn trân trân, ngộ mình. Sư bác thấy ông mở mắt, mừng quýnh: “Ôi… sư tổ tỉnh rồi. Ban nãy thấy sư tổ biền biệt, mạch trẩm, những tưởng sư tổ… Rồi chợt lại thấy sư tổ … môi cứ mấp máy liên hồi thành tiếng nhưng không rõ lời, cứ như là đang nói chuyện với cõi người khác… chúng tăng nghĩ… cơ chừng… sư tổ đang vân mộng về cõi Phật… mới bớt lo”. Huyền Quang khẽ ờ trong cổ và thầm nghĩ, thì ra mình vừa qua một giấc mộng. Bần thần hồi lâu, ông cố nhớ những gì xảy ra trong mộng. Ừ, bây giờ ông chẳng sợ gì nữa. Cái đáng sợ nhất là bản ngã, thì ông đã vượt qua rồi. Tiếng để đời ư? Rồi một ngày kia người đời sẽ hiểu. Chân lý có con đường riêng của mình, dù rằng vòng vèo khuất lối. Ông phẩy tay ra hiệu bảo mọi người đỡ ngồi dậy. Thấy ông đứng lên định đi thì sư bác và mấy chú tiểu xúm ngay lại đỡ hai bên. Ông bảo mọi người cứ để ông tự mình, không cần phải giúp sức, bởi ông muốn ra bên ngoài một mình: “Chừng canh mấy rồi nhỉ?”. Sư bác thưa: “Bạch thầy… còn chưa tới canh một”. Ông đi chậm rãi, từng bước một ra sân chùa. Nhìn trời, trăng thượng huyền đã xế khuất chân trời phía Tây, ánh sáng mờ mờ song vẫn còn đủ để ông thấy rõ những cây đại xung quanh và đường tùng dưới kia, cả những vạt trúc nhấp nhô miên man như vô tận…

          Lòng thanh thản lạ thường, ông cảm nhận một trạng thái chưa từng thấy ở mình. Một vì sao đổi ngôi vạch sáng chéo vòm trời. Vậy là có thêm một sinh linh nơi phàm trần được Đức Phật gọi theo. Ông cứ muốn một mình, đứng mãi nơi sân chùa này với cảm giác hạnh ngộ như vậy!...”

 

 

ĐẤT DỊU DÀNG                       

Truyện ngắn

Làng Giải Oan nằm uốn mình theo thế cong của một con sông nhỏ. Đã như thế từ nghìn đời nay. Chỉ có điều là số người cứ ngày một đông thêm dù trải qua bao biến cố của lịch sử. Giờ đây, chiều dài của làng dễ hơn hai cây số. Từ xa nhìn về làng thấy dáng của một con rắn khổng lồ. Chẳng hiểu thế đất có ảnh hưởng đến tính cách con người hay không, song từ xưa đến nay, dân quanh vùng đều đồn nhau rằng người làng Giải Oan khôn ngoan, tinh ranh, nanh nọc như loài rắn.

ở khoảng giữa làng, kề với bờ sông có một khoảng đất vuông vức rất đẹp. Trên mảnh đất ấy xưa chỉ có hai gia đình sinh sống, đó là nhà ông Đồ Sinh và ông Bát. Tuy xấp xỉ tuổi nhau nhưng xét về họ hàng xa thì ông Đồ Sinh là vai chú. Ông Đồ Sinh đã vài lần lều chõng đi thi nhưng không đỗ, buồn đời mở lớp dạy học và nuôi dạy hai con, một trai, một gái. Còn ông Bát nhà có vài ba sào ruộng, quanh năm cấy cày, lúc nhàn rỗi thì hai vợ chồng đi làm thuê cho nhà khác trong làng. Thường là bà Đồ mướn hai vợ chồng ông Bát làm ruộng cho nhà mình. Tuy quan hệ chủ tớ nhưng được cái ông Bát nhanh nhẹn, khéo mồm và ông bà Đồ Sinh cũng dễ dãi nên chuyện công xá xuê xoa.

Vợ chồng ông Bát có hai người con trai, người anh cả là Tông khá xảo quyệt, ngược lại cậu em tên Tường lại ù lỳ, cục mịch, thêm tật nói ngọng. Vì nhà có hai con trai nên ông Bát luôn để tâm đến việc mở rộng thổ cư để sau này xẻ đôi cơ ngơi cho mỗi con một nửa. Những mùa sông cạn nước, ba cha con ông Bát hì hục lấy đất ở lòng sông cạp bờ lấn ra sông, đến nỗi sau mấy năm liền như vậy khúc sông ấy hẹp lại thắt eo bụng rắn. Chưa hết, thấy ông bà Đồ Sinh dễ dãi, ông Bát còn thủ tâm lấn sang đất nhà ông bà Đồ. Một đêm mưa rét, ông Bát trở dậy, lay Tông và thì thầm điều gì đấy vào tai nó. Hai cha con mở cửa ra ngoài, mang theo chiếc thuổng đào đất. Khi cả hai đứng bên cạnh chiếc mốc đá đánh dấu ranh giới giữa hai nhà mới tần ngần không biết nên làm thế nào. Tông thì thào: "Đào phéng nó lên, quẳng xuống sông cho mất tích rồi sau lấn hàng rào dần". <!--more-->Còn ông Bát lại bảo: "Mày ngu thế. Mất mốc thì ông bà Đồ biết ngay. Tốt nhất là dịch chuyển mốc". Cứ thế, hai cha con dùng dằng mãi mỗi người một ý, không ai chịu ai. Thế rồi vẳng lại từ phía xa trên đường làng có tiếng chân người bước, hai cha con ông Bát vội bỏ về nhà, quên mang theo chiếc thuổng.

Mờ sáng hôm sau, ông Bát dậy rất sớm, mò ra chỗ hòn mốc. Lạ thay, hòn mốc đá đã biến mất, chiếc thuổng của nhà ông vẫn cắm phập ở đấy. Hòn mốc không còn mà chỗ đất chân mốc lại không có dấu vết gì của sự đào bới. Sờ tay xuống chỗ đất đó ông Bát cảm thấy bình thường cứ như là chưa bao giờ có hòn mốc ở đó. Trở vội vào nhà, ông Bát gọi Tông dậy, lôi ra chỗ mốc chỉ cho xem. Tông cũng ngạc nhiên không kém gì cha. <!--more-->Chợt Tông ú ớ kêu lên. Nhìn theo tay chỉ của con, ông Bát thấy rõ ràng là hàng rào ranh giới như có sự chuyển dịch tự nhiên về phần đất của nhà ông Đồ Sinh. Hai cha con bàng hoàng cứ ngỡ như nằm mơ. Nhưng không, cả hai đều tỉnh, và rõ ràng đất nhà mình rộng hẳn, còn đất nhà ông Đồ Sinh hẹp lại. Hai cha con nửa mừng nửa lo kéo nhau về.

Mãi mấy ngày sau, bà Đồ Sinh mới phát hiện ra hòn mốc bị mất nhân một lần dọn hàng rào. Ai động vào đây, nếu không phải cha con nhà lão Bát? Không phải một mà nhiều lần, bà Đồ Sinh bắt gặp lão Bát lén ngắm cơ ngơi, vườn tược nhà bà một cách thèm thuồng. Nhưng chẳng lẽ lại hỏi thẳng lão ta à. Nghĩ hồi lâu, bà Đồ Sinh bèn bước vào sân nhà lão Bát vui vẻ hỏi:<!--more-->

- Này ông Bát, ông hỏi xem có phải thằng cu con nhà ông nó chơi nghịch đào mất hòn đá mốc hàng rào không? Nếu cháu nó chót nghịch vứt đâu thì bảo mang về mà chôn lại, kẻo để lâu hàng xóm láng giềng mất lòng nhau.

- Không đâu cụ ạ. Thằng cu Tường nhà cháu ù lì, vừa điếc vừa ngọng biết gì đâu mà chơi đùa như thế - Ông Bát vội phân bua.

Thấy vậy Tông hùa theo cha:

- Thưa cụ là đúng đấy ạ. Em cháu nó biết gì. Chắc là đứa nào đấy thôi... Hay là hai cụ bên ấy lại nghi cho nhà cháu lấn đất? Nếu vậy thì nhà cháu xin thề...<!--more-->

- Thằng cháu nó nói vậy, nhà cháu sinh băn khoăn. Chẳng lẽ hai cụ lại nghĩ là...

- Thôi thôi - Bà Đồ Sinh ngăn lại - Tôi có nói gì đâu, nghi gì đâu. Không phải thề bồi gì cả.

Thì ra ông Đồ Sinh đã đứng ở bên kia hàng rào nghe hết chuyện và đến lúc ấy ông thủng thẳng vọng sang:

- Đừng thề gì. Trời đất linh thiêng lắm. Lòng dạ ai thế nào trời đất biết cả. Thôi chuyện xem như chẳng có gì... Mà bà ạ - ông Đồ Sinh nói với vợ - Cần gì mốc. Người xưa nay dạy là "đất có thổ công, sông có hà bá" mà...<!--more-->

- Thưa hai cụ là nhà cháu mà có lòng tham định lấn đất của bên ấy thì trời chu đất diệt - Tông thề thống thiết.

Còn ông Bát thì cứ loanh quanh, miệng mấp máy mà không thành lời.

*

Thời gian trôi qua, ông bà Đồ Sinh khuất bóng. Người con trai duy nhất là Kinh ra thành phố làm công chức, thỉnh thoảng về quê thắp hương, còn người con gái lấy chồng nhà giàu làng bên tháng đôi lần đảo qua quét tước, thăm nom vườn tược. Ông Bát cũng qua đời sau khi cưới được vợ cho Tông. Đất nhà chia làm đôi, vợ chồng Tông ở phía trong, bà Bát và cu Tường ở nhà cũ.

Vợ Tông không kém gì chồng về khoản mồm mép. Mụ thành đanh đỏ mỏ. Đến miệng lưỡi liến láu như Tông còn nhiều khi phải chịu. Họ có ba con, một trai đầu lòng và hai gái. Cu Tường lớn lộc ngộc nhưng vì điếc, ngọng nên gái làng chê. Mãi đến gần thời cải cách ruộng đất, một bà ở làng hay đi chợ búa đây đó dẫn về một cô gái lạ lưu lạc, gán cho. Thế là Tường có vợ. <!--more-->Vợ Tường xinh ra trò, kiểu cách lại có vẻ hoa nguyệt. Tường mừng còn hơn bắt được của, và đi đâu cũng lắp bắp khoe mình có vợ đẹp. Nhưng rồi mãi mà vợ Tường chẳng chửa đẻ gì. Trong khi đó, mụ thành đanh đỏ mỏ nhà Tông đẻ sòn sòn, vì thế mụ bắt đầu chê bai vợ Tường không biết đẻ. Đi đến đâu mụ cũng rêu rao rằng: "Ngữ ấy đẻ gì. Rồi có mà tiệt giống. Sau này đến phải nhờ thằng cu nhà này cúng hộ thôi". Rồi mụ bầy tỏ sự thèm muốn chiếm nốt phần đất cha mẹ chồng dành cho Tường. Nhưng rồi mụ lại không sống được để thực hiện ý đồ. Trong một lần bắt cua mò ốc, gặp trời mưa, mụ chui vào chiếc quán giữa đồng cùng với mấy người khác để trú mưa. Sét đánh xuống cây gạo trước cửa quán. Mụ ngồi ngoài cùng nên toác đầu chết ngay lập tức. <!--more-->Những người khác ở phía trong nên chỉ chết ngất đi, rồi sau tỉnh lại. Tông góa bụa, sống cảnh gà trống nuôi con. Người làng đồn Tông có tướng sát vợ nên tránh xa y. Mấy lần Tông nhờ mẹ đi hỏi đám này đám khác quá lứa nhưng hết thảy đều chối từ.

Vợ Tông chết thì vợ Tường lấy làm sung sướng, bởi không còn lo lắng gì nữa. Vốn mềm mỏng, khéo léo, vợ Tường chăm chút cho ba đứa trẻ mồ côi lúc tắt lửa tối đèn. Nhưng rồi anh em Tông, Tường bắt đầu hục hoặc với nhau. Tường cục mịch hay ghen. Vợ lại mỏng mày hay hạt, tính tình xởi lởi. Vì thế, cứ mỗi bận vợ tắm táp hoặc cho quà mấy đứa con của Tông là Tường lại nổi máu lầm bầm chửi vợ. Và hễ vợ cãi lại là Tường thượng cẳng chân hạ cẳng tay làm vợ thâm tím mặt mày. <!--more-->Thực ra Tường không ghét bỏ gì đứa cháu mà chẳng qua Tường không tin Tông, Tường đã nhiều lần nói với mọi người rằng mặt Tông trông gian lắm. Có một lần đứa bé út nhà Tông bị ốm, Tông loanh quanh chẳng biết làm gì, vợ Tường thương cháu lấy cỏ nhọ nồi đánh gió cho cháu. Nó dịu sốt nhưng hễ vợ Tường đặt nó xuống giường để ra về thì nó lại khóc thét lên. Mãi đến khuya vợ Tường mới lừa được nó để về nhà mình. Tường nổi điên cho là vợ bị Tông dụ dỗ để tằng tịu. Tường đánh vợ thất điên bát đảo, rồi lấy dao chặt phăng ngón tay út của mình và thề độc rằng: <!--more-->"Lần sau mà như thế này nữa thì tao chém cả mày lẫn thằng Tông". Vợ Tường nhìn ngón tay út của chồng văng ra thì rú lên chui vào gầm giường để trốn. Bà mẹ cuống cuồng xé vạt váy của mình để băng tay cho Tường. Tông ở nhà mình nghe thấy hết và biết là Tường nghi ngờ và đánh oan vợ song hắn cũng sợ sự hung bạo điên cuồng của Tường mà chẳng dám sang can. Thực ra, Tông cũng thích vợ Tường thật. Hắn thích từ lúc vợ hắn còn sống kia, nhưng vì sợ con vợ thành đanh đỏ mỏ nên đành chịu. Từ khi vợ chết, lại thấy vợ Tường hay đi lại chăm sóc mấy đứa con hắn thì hắn nuôi chí chiếm đoạt vợ Tường. Hắn biết vợ Tường hay tắm vào ban đêm lúc hạ oi nồng. Bể nước mưa nhà Tường lại ở ngay kề hàng rào khúc gần giáp với nhà hắn. Và thế là cứ đêm về, hắn nằm ru mấy đứa con ngủ và đôi tai chuột của hắn cứ dỏng lên. Hễ nghe thấy tiếng nước róc rách là hắn vùng dậy, rón rén đến sát tường rào, vạch lá khúc tần nhìn sang. Đêm sáng trăng hắn nhìn thấy da thịt vợ Tường nõn nà, hai bầu vú thây lẩy thì hắn thèm lắm.<!--more--> Đã có lần hắn định vạch rào chui sang nhưng lại sợ vợ Tường kêu lên, đành nuốt nước miếng chịu thèm. Lúc trở về giường ngủ, nhìn vào đâu hắn cũng chỉ thấy bóng hình vợ Tường nõn nà, khêu gợi. Hắn lèm bèm chửi thề: "Mẹ cha thằng Tường. Người nó như cục cứt mà sao lại vớ được con vợ ngon lành đến thế!".

Thèm muốn là thế nhưng sau lần này thì hắn tởn. Hắn kinh sợ thằng em ngu đần, điên khùng của mình. Song thâm tâm, hắn vẫn thèm muốn và nuôi ý định chiếm đoạt em dâu.

*

* *<!--more-->

Bao biến cố lịch sử dồn dập: hòa bình lập lại, giảm tô, cải cách, rồi lại chiến tranh... Những đứa con của Tông khôn lớn dần. Vợ chồng Tường vẫn chưa có con. Người làng đồn, lúc chưa lấy Tường, vợ Tường là gái hoa nguyệt nên mắc bệnh gì đó rồi mất khả năng sinh con. Ông Kinh, con trai cụ Đồ Sinh, đang làm công chức ở Hà Nội, bỗng nhiên mang vợ con về quê sinh sống. Ông Kinh nói rằng về quê lánh đạn bom, những người làng thóc mách lại nói rằng ngày trước ông Kinh dính gì đó với Tây nên bây giờ không được làm với nhà nước nữa. Bà con, họ hàng làng xóm người giúp cây tre, người giúp bó rạ, dựng căn nhà tường vách đất cho gia đình ông Kinh ở. Thật chẳng khác một vòng quay của sự chuyển dịch, ba gia đình lại sống bên nhau, nghèo khó, lầm lụi. <!--more-->Tuy vậy, ở với nhau một thời gian cũng sinh chuyện. Ông Kinh là người có học, nhường nhịn mọi người nên mọi chuyện cũng xuê xoa đi. Trong thâm tâm, ông Kinh ghét Tông bởi anh ta chỉ thơn thớt cái mồm nhưng tâm địa đen tối, ngược lại ông quý Tường vì anh ta cục mịch, chân chất và ngay thẳng. Nhưng không ngờ, từ sự quý mến đó lại vô tình dẫn đến cái chết thương tâm của Tường.<!--more-->

Chẳng là, gia đình ông Kinh nuôi một con chó cái đẻ giữa nhà. Con chó đẻ một bầy con. Tường sang chơi, thấy bầy chó con thì thích lắm. Tường thật thà bầy tỏ: "Con không có tiền, khi nào bầy chó ăn cơm no, ông có bán cho con xin con còi nhất đàn". Ông Kinh vui vẻ đồng ý. Vì là chó còi nên nuôi mãi không lớn. Tường mang đi bán và thêm tiền bán mấy cái giỏ để mua một con chó khác về nuôi. Không may, lúc tìm mua chó, Tường bị một con cắn vào tay. Tường cũng chẳng để ý gì. Mấy tháng sau, nhân đám ma một cụ già ở làng, Tường đi đưa đám trở về, chiều thấy người gây gây. Rồi Tường hung hãn dần lên, sợ nước, sợ gió, sợ lửa... Vợ Tường thấy thế sợ quá, tru tréo lên làm cả xóm đổ đến. Mọi người gặng mãi, Tường mới chịu nói là bị chó cắn hồi nào. Có người bảo lấy hạt đỗ xanh cho Tường ăn, nếu thấy ngon, thấy bùi thì đúng là điên. Tường dốc cả vốc đỗ xanh vào miệng nhai và nuốt ngon lành. Thôi thế là hết. Cả đêm ấy Tường lồng lộn.<!--more--> Cả làng không ai ngủ được. Sáng hôm sau, Tường mệt lử, ngồi rúm trong góc tối. Lại có người nói là lấy con dòi ở phân người sao vàng, sắc đặc cho uống may ra khỏi. Vợ Tường vì quá sợ nên ai bảo thế nào cũng nghe. Lúc đổ thuốc cho Tường, mọi người đều sợ Tường cắn. Nhưng rồi người ta cũng đè ngửa được Tường ra, cạng chiếc đũa cả ngang miệng để đổ thuốc. Tường cắn nát chiếc đũa, gẫy cả răng, máu me đầy mồm. Đến chiều thì Tường quá yếu, chỉ còn nằm thoi thóp, chốc chốc lại nấc người lên để thở như có ai chẹt cổ. Lúc gần chết, Tường tỉnh hẳn, gọi vợ lại gần. Vợ Tường thương chồng nhưng cũng sợ không dám vào gần.<!--more--> Tường quát: "Ông không cắn đâu mà sợ. Ông sắp chết đây!" Vợ Tường đến bên chồng. Tường nhìn vợ hồi lâu rồi mặt cau lại, nhăn nhúm: "Tao chết thì ở vậy mà giữ nhà, giữ đất. Mày mà lấy đứa nào thì tao về tao bóp cổ chết cả hai". Vợ Tường khóc: "Khốn nạn cái thân tôi, long đong cả đời mà chẳng ra người. Đến nước này thì tôi còn thiết gì mà lấy chồng nữa hả trời".

Anh yên tâm mà nhắm mắt. Cũng chẳng bao lâu nữa tôi theo xuống với anh, để anh tiếp tục đánh tôi như ở dương gian". Tường nhìn vợ hài lòng: "Tao sẽ không đánh nữa đâu".<!--more-->

Làng xóm vừa thương xót, vừa buồn cười cho cái tính ghen quá đáng nhưng đầy tình yêu thương của Tường với vợ. Tường chết, đám ma Tường rất đông. Thực ra, người ta cũng chẳng yêu quý gì Tường nhưng cái chết kinh thiên động địa của Tường đánh thức lòng nhân từ trong mỗi con người. Ông Kinh thì luôn cảm thấy mình có lỗi trong cái chết của Tường.

Vợ Tường từ bấy héo mòn và bệnh tật cô đơn. Chị ta mất sau chồng mấy năm, Tông lấy vợ cho thằng con trai đầu. Nhường cho vợ chồng nó ở nhà mình, hắn mang con ra ở nhà Tường, nói là nhang khói, giỗ tết cho vợ chồng Tường. Thằng Vẻn, con trai Tông có tính tắt mắt từ nhỏ, đến lúc nó lấy vợ thì cái tính ấy càng tăng lên và nó theo phường đạo chích. Xóm làng liên tục xảy ra các vụ trộm cắp và phần lớn nó là thủ phạm, hay nó dắt khách về trộm của người làng.<!--more-->

Bỗng một hôm Tông đi chợ phiên về dắt theo một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi. Người này da dẻ hồng hào, mặt mũi khá đẹp, dáng người cao lớn, phốp pháp. Tông nói với làng xóm rằng người ấy là vợ mới của hắn. Nhưng chỉ mấy ngày sau khi người ta tấm tắc khen Tông lấy được vợ xinh đẹp thì người ta lại đồn ầm lên là cô vợ mới của hắn bị hủi. Để ý người ta thấy đầu các ngón chân của cô ta to tướng, sần sùi. Và thế là cô ta đi đến đâu, người làng cũng né tránh. Chẳng biết Tông có sợ bị lây hủi không nhưng hắn vẫn sống rất hòa thuận với vợ. Thằng Vẻn thì bô bô một cách công khai rằng cần phải đuổi cổ con hủi đi khỏi làng. Nó bị bố nó đe chém mới bớt mồm. Rồi cô vợ mới này to bụng. Người ta bảo: "Có đẻ ra thì cái giống ấy cũng hủi thôi". Nhưng bất chấp mọi lời nói xấu, thằng con trai do cô vợ mới của Tông sinh ra rất bụ bẫm, kháu khỉnh, Tông quý con lắm. <!--more-->Song một hôm Tông đi vắng về đến nhà thì cô vợ mới đã mang con đi đâu mất. Có người nói chắc là cô ta mang con tìm vào sống ở Trại hủi mãi tận miền Trung. Tông tức điên và lồng lộn như thú dữ đến hàng tuần, rồi hắn cũng dịu đi. Nhưng sau đó hắn không còn dẻo quẹo cái mồm nữa. Người làng kháo nhau rằng Tông quá đam mê cô vợ hủi khỏe mạnh nên bị ả ta bòn rút hết sinh lực, bởi hắn gầy rộc đến thành hom hem. Tông qua đời không kịp gả chồng cho hai con gái.

Vợ thằng Vẻn đẻ con trai. Mụ chẳng biết làm gì. Suốt ngày bế con tha thẩn nơi chợ búa, lúc miếng bánh đúc chấm tương, lúc cái bỏng bộp. Vẻn vẫn hành nghề đạo chích. Một lần hắn cùng gã bạn lẻn vào một nhà người ở làng bên không may cả hai thằng đều bị con chó của chủ nhà đớp cho. Thằng bạn bị vào mặt, còn Vẻn bị vào tay. Trộm cắp bị chó cắn xem như chuyện thường, nên chúng chẳng thèm để ý. Nhưng chỉ nửa tháng sau, gã bạn lên cơn điên dại mà chết. Lúc ấy Vẻn mới thấy sợ. Hắn không dám đến đưa đám gã bạn. <!--more-->Ngồi ru rú ở nhà, Vẻn biết rằng cũng sắp đến lượt hắn. Đêm về, hắn đã cảm thấy khang khác trong người, nhưng máu đạo chích vẫn cuồn cuộn chảy trong huyết mạch hắn và quyết làm một mẻ thật to cho thỏa chí trước khi chết, cũng là tích góp thêm ít của để nuôi mụ vợ đoảng và thằng con thơ dại của hắn. Lúc hắn ôm bọc đồ trèo lên tường chuồn ra ngoài thì không hiểu vì sao hắn bị ngã xuống. Chủ nhà thấy động, hò nhau dậy bắt trộm. Khi đèn đuốc soi rõ vào mặt hắn thì người ta thấy mắt hắn trợn lên, mồm đầy dãi và hắn co rúm người lại, tru lên như chó bị đường cùng, răng nhe ra chực cắn. Người ta trói hắn mang nhốt vào kho của hợp tác xã để hôm sau nộp công an. Nhưng rồi thấy hắn lên cơn như người bị chó dại cắn, người ta sợ quá buộc chặt hắn lại đưa về nhà hắn. Thấy vậy, mụ vợ hắn tru tréo ầm ĩ vu là họ đánh chết chồng mụ. Hắn điềm nhiên bảo: "Không. Họ không đánh tao. Tao bị điên đấy. Chó dại cắn tao. <!--more-->Tao sắp chết. Tất cả chúng mày xéo ngay ra ngoài kẻo tao lên cơn cắn chết hết". Và sau đó, hắn chết thảm thương. Nhìn cảnh hắn chết, cả làng xóm, trước đây ghét hắn vì hắn trộm cắp chẳng từ ai, nay bỏ qua hết. Người ta tha thứ nhưng không biết khi hắn từ giã cõi đời có thanh thản hay không?

Chồng chết, mụ Vẻn không người chu cấp. Mụ chẳng biết làm gì. Mụ đói, con mụ đói và mụ bắt đầu trộm cắp. Hai đứa em gái Vẻn chẳng ma nào ngó ngàng tuy chúng không đến nỗi xấu xí, song quanh vùng biết cảnh nhà nên người ta tránh. Chúng bàn nhau bỏ nhà lên mạn ngược sinh sống và nghe đâu lấy được chồng, rồi lập nghiệp luôn ở đó. Mụ vợ Vẻn chẳng mấy quan tâm đến đứa con. Nhiều hôm sau đi đâu, nhốt và bỏ đói con ở nhà. Hàng xóm thương tình cho ăn. Ông Kinh thấy vậy thở than. "Thật chúng chẳng biết quý người. <!--more-->Trộm của, bỏ người". Đứa bé ốm đau không được chạy chữa gì. Nó chết, mẹ nó định bó chiếu. Hàng xóm thương tình góp gỗ mảnh đóng cho nó chiếc quan tài vỏ. Vợ Vẻn còn lại một mình. Mụ rao bán đất nhưng người làng bảo đất ấy dữ, hại chủ nên có rẻ cũng chẳng ai dám mua. Mụ bỏ nhà chẳng thèm khóa mà nhà mụ đâu có gì để phải giữ. Có khi mụ biệt đi đến vài tháng mới thấy lai vãng vễ. Rồi nghe đâu mụ đau ốm, bị đòn chợ chết dúi ở đâu chẳng ai hay.

Ông Kinh cũng qua đời. Tính ông vốn cả nghĩ, lại cộng thêm sự lao lực để nuôi mấy đứa con ăn học, nên chẳng thọ được đến cái tuổi "xưa nay hiếm". Mấy đứa con ông ăn học thành tài ra thành phố lập nghiệp cả. Bà Kinh cũng ra ở với con.

Thế là cả khoảng đất ven đường lại ven sông ấy bỏ không.

*<!--more-->

* *

Suốt một thời gian dài không có người ở chăm chút, ba căn nhà vách đất tre rạ ấy, mái trũng xuống, tường đất lở, sân gạch đầy rêu và lá mun. Hàng rào khúc tần bị tơ hồng quấn lụi đi. Cây cối trong vườn tới mùa chỉ thưa thớt quả. Chỉ cỏ dại là tốt bời bời.

 

Người làng, ai đi ngang qua cũng tiếc mảnh đất vuông vắn, tiện đường xá lại bị bỏ hoang. Thi thoảng, nhân chuyện gì đó, người ta cũng nhắc đến những con người đã từng sống trên các mảnh vườn ấy.<!--more-->

Một hôm, có một thằng bé chừng hơn chục tuổi, vận bộ quần áo tuy sờn cũ nhưng sạch sẽ, khoác chiếc tay nải. Nó hỏi thăm vào làng Giải Oan. Nhưng khi nó hỏi đến nhà ông Tông thì người ta ngạc nhiên song cũng chỉ đường cho nó. Thằng bé đi vào vườn của hai nhà Tông, Tường. Đứng ở sân, nó cất tiếng gọi nhưng không có ai trả lời. Nó cứ tần ngần mãi không biết nên đi hay ở. Lúc nó quay ra thì đã thấy phía ngoài đường làng bên hàng rào khúc tần lố nhố người đứng. Họ chỉ trỏ và nói gì đó với nhau. Nó định hỏi họ nhưng không biết sẽ phải hỏi như thế nào. Chợt nó nghe thấy một người nói:<!--more-->

"Đúng là con của lão Tông với mụ hủi ngày nào". Một người khác tiếp theo: "Hôm qua cậu con trai ông Kinh từ Hà Nội về nói là hiến mảnh đất để xây nhà thờ họ". Nó không hiểu hết những lời họ nói nhưng nó nhìn thì thấy nét mặt ai cũng có vẻ hiền lành mà họ có phần còn biểu lộ vẻ vui mừng nữa. Trước khi chết, mẹ nó có dặn nó đôi điều, nó vẫn nhớ hết, nhưng cả mẹ nó và nó cũng không thể ngờ tới cảnh này.

Chợt nó nhìn thấy ngay phía dưới chân nó đứng, một mầm táo dại nhú lên. Bỏ mặc những tiếng người cười nói thêm phần ồn ào ngoài hàng rào, nó cúi xuống, đưa bàn tay khẽ chạm vào mầm táo dại bụ bẫm...

Hà Nội, tháng 11 - 1993

N.C.N

 

MỘT THỜI MÁ ĐỎ

 

Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc

 

Anh lên Châu Mộc, theo lời mời của Quân, người bạn thân, cán bộ quản lý Văn phòng khu vực Tây Bắc của một cơ quan báo chí lớn. Quân sắp đến tuổi nghỉ hưu, vốn yêu mến miền đất thơ mộng này, muốn tìm một mảnh đất rộng để làm nhà vườn, đặng an nhàn tuổi già. Quân bảo: “Tôi biết ông cũng yêu quý vùng đất này chẳng kém gì tôi, cuối tuần ông lên đây chơi với tôi, cùng tôi tìm đất, biết đâu, ông cũng động lòng, kiếm một mảnh đất… Đồng bệnh tương lân mà, tôi và ông đều tương tư vùng đất này, bởi cả hai ta, cùng để lại nơi đây một mối tình dang dở, một thời… nhỉ”. Nghe vậy, anh cười: “Mối tình dang dở ư? Có thể với ông là đúng, song với tôi, thì chưa hẳn… Nhưng thật tình, tôi yếu mến miền đất thơ mộng này, có khi còn hơn ông!”. Cả hai cười vang.

          Quân đưa xe về Hà Nội đón anh lên. Chiều cuối tuần, xe ngược lên châu Mộc. Qua Thung Khe, cơn giông kéo lên đầy trời, may là đầu hè nên không bị sương mù. Trời đổ mưa nặng hạt.  Quân lặng nhìn quang cảnh đồi núi gội mưa, cảm thán:”Tôi rất thích ngồi xe ngắm trời mưa, ông ạ”. Cậu lái xe nghe vậy hài hước: “ Ôi, sếp thích, nhưng em khổ sếp ơi. Lái xe đường núi trong mưa thế này, cực lắm, sếp à”. Chúng tôi phá lên cười, rồi lặng đi nhìn mưa rơi hồi lâu, hình như mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Anh chợt nhớ, động lòng thốt lên mấy câu thơ:” Ơi một thời khao khát/ Em thì còn trẻ măng/ Ngước cái nhìn ngơ ngác/ Ta vờ ngó vầng trăng/ Chỉ lửa là rất thật/ Bừng lên cháy hết lòng/ Em một thời má đỏ/ Ta một thời long đong”… Quân nghe, nói mơ màng như đẩu đâu ấy” Ừ,… đúng là em một thời má đỏ, … ông nhỉ?’. Anh cùng ờ như mơ hồ…

          Mưa dứt từ lúc nào, xe lên tới cao nguyên Châu Mộc. Cao nguyên sau cơn mưa gột rửa, tươi mát yên lành trong màu xanh  mướt của ngô và chè. Những năm rồi, anh qua lại vùng đất này nhiều lần, nhưng mỗi lần mỗi ngỡ ngàng. Lần này, là sự ngỡ ngàng về vẻ tươi mới và có gì đó khang khác của cao nguyên mà anh chưa nhận ra.

 

          Lấy phòng khách sạn, tắm rửa sạch sẽ, mọi người đi ăn nhà hàng theo lời mời của một người bạn với Quân. Món ăn bản địa, ẩm thực Thái Mường lạ miệng. Cụng ly chúc tụng, nên ai cũng ngà ngà, một trạng thấy đầy hưng phấn. Anh cao hứng đọc thơ, là thơ tình, về mảnh đất này, nên mọi người đều vui lắm.

          Đêm về, tưởng là ngủ được ngay, nhưng không ngờ, anh lại khó ngủ làm sao…


#

          Ngày ấy, cách đây gần bốn mươi năm rồi, anh đang học năm cuối đại học Nông nghiệp. Lớp của anh lên đây thực tập, đồng thời học nốt mấy môn học phù hợp với điều kiện thực tế của Nông trường Bộ ở đây.

          Mấy chiếc xe khách Hải Âu đã chở đoàn sinh viên vượt dốc Cun, rồi Thung Khe lên với Mộc Châu. Ngày đó, khi xe ì ạch leo đèo, cả đám sinh viên, phần lớn quê các tỉnh đồng bằng, lần đầu lên miền núi, đã tranh nhau ghé nhìn qua cửa kính phong cảnh núi non hùng vĩ  của vùng cửa ngõ Tây Bắc, thích thú lắm. Khi đó, một chàng sinh viên lớn tuổi, là bộ đội chuyển ngành, cảm khái khi cất tiếng đọc mấy câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây sung ngửi trời/Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, khiến mọi ngượi lặng đi…Ngày ấy, bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chưa nhiều người biết, song sức gợi của nó thì cả người không yêu thơ cũng cảm thấy gai người. Đường sá nhỏ hẹp, quanh co,  nhiều đoạn xóc này người, rồi cuối cùng cao nguyên châu Mộc cũng hiện ra trong màn sương chiều se lạnh. Đêm ấy, mọi người được bố trí nghỉ ở nhà khách Nông trường Bộ, sau một buổi tối lang thang ra những nương chè.

Thời gian cả lớp ở lại đây chừng mươi ngày để học nội quy chung, học nốt vài môn học, rồi sau đó chia ra từng nhóm nhỏ, về thực tập tại các đội sản xuất cụ thể. Dạo ấy, Nông trường Mộc Châu được chính phủ Cuba giúp đỡ xây dựng nên khang trang và quy củ lắm. Các đội sản xuất được phân chia theo các loại hình công việc chuyện biệt hoặc kết hợp, chẳng hạn chuyên trồng chè, chuyên trồng cỏ và nuôi bò sữa, hoặc kết hợp cả trồng chè và nuôi bò sữa…

Anh được phân về một đội sản xuất cách xa trung tâm Nông trường Bộ chừng dăm cây số, chuyên về đồng cỏ và bò sữa. Từ trung tâm phải ngược dốc vào sâu tít nơi rải rác có những bản người Mường, người Thái, người Mông Hoa. Đội sản xuất này, có khoảng gần trăm công nhân, phần lớn chưa lập gia đình, ở tập thể tại khu lán trại đơn giản kiểu nhà cấp 4, giường tầng. Để nhường chỗ cho cánh sinh viên thực tập ở, các công nhân phải dồn lại, nhường riêng một khu nhà cho khách.

Ở đội sản xuất này, chỉ có chừng gần chục nam giới, trong đó có vị Đội trưởng. Còn lại là nữ, chủ yếu độ tuổi trên đôi mươi, đều quê ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ như Hà Tây, Hải Hưng, Hà Bắc, Nam Hà, Thái Bình… Tay đội trưởng, tên Thiết, tuổi ngoài ba chục, đã có vợ con, và thật hợp với cái tên của mình, người y còi đen xắt lại, thêm hiếng một mắt, nhìn khá gớm ghiếc. Nghe đám công nhân nữ xì xào với nhau, y rất tinh ranh, ghê gớm và là một sát thủ tình trường. Cánh sinh viên thì bảo nhau, chẳng qua, thời chiến tranh vừa rồi, con trai mạnh khỏe ra trận hết, chỉ còn lại ít đàn ông đui què mẻ sứt ở nhà, nên của hiếm mà thành tinh thôi. Chuyện làng quê thời chiến thiếu đàn ông, không lạ, nhưng không thể sánh với chuyện nông trường thiếu đàn ông. Cái tỷ lệ, một đàn ông với mười đàn bà đang độ tuổi thanh xuân bị dồn vào một chỗ thì mới ghê gớm làm sao. Đàn bà sung sức, lại thừa mứa như thế, bị dồn nén nơi xó rừng, dễ làm họ rực lên…

Mang tiếng nhiều phụ nữ như thế, nhưng ở đội sản xuất này anh cũng chỉ để ý và nhớ tên được mấy người mà thôi. Và đương nhiên, phụ nữ để nam giới thuộc mặt nhớ tên giữa đám đông ắt phải có gì đặc biệt, xinh hoặc xấu, hoặc tính tình có gì đó khác lạ. Người đầu tiên, để anh lưu tâm, ấy là Duyên, một kỹ thuật viên, cỡ tuổi anh, quê dưới xuôi, vóc dáng tầm thước, da nâu, gương mặt không hẳn xinh nhưng ưa nhìn và khá lạnh. Người thứ hai, là Hương, vóc dáng nhỏ nhắn, gương mặt khá xinh, hay cười nói, nhí nhảnh kiểu trẻ mới lớn. Người thứ ba, ấy là Lan, tạng người có da có thịt, gương mặt tròn trịa, hàm răng trắng đều, tính tình xởi lởi, dễ chịu. Và cuối cùng là Tẻo, tên xấu, người thấp lùn, gương mặt có gì đó dị dạng, lại mắc chứng điên tình. Ngày làm việc, rồi các bữa cơm tập thể, anh hay gặp họ, nhưng thi thoảng hỏi chơi mấy câu tầm phào, theo kiểu mà người ta hay nói cửa miệng là ”trai sinh viên, gái nông trường”, tán tỉnh chút cho vui . Với Duyên, cô gái này luôn giữ ý đúng mực giữa đám đông, không chủ động chuyện bao giờ, chỉ trả lời khi bị hỏi, và luôn có ý phòng thủ. Cánh nam sinh viên bảo nhau “con bé này kiêu lắm”, nhưng nghe đâu, cô đã từng yêu sâu nặng và rồi thất tình với một chàng sinh viên Hà Nội hào hoa nào đó, dạng về đây thực tập từ vài năm trước đó, nên tính tình sinh ra vậy.

Với Hương, anh đã vài lần nói chuyện, thậm chí, đã có lần, anh cùng cô bé này ra đồng cỏ chăn bò. Buổi sáng, lùa bò ra đồng cỏ, thả rông để chúng gặm cỏ và vận động cho thoải mái. Nhũng con bò sữa lang trắng đen, giống của nước ngoài, điểm xuyết trên nền cỏ xanh, giữa quang cảnh núi non, trông thật thơ mộng. Hương thả bò rồi tìm một gốc cây có bóng mát ngồi, canh chừng. Có anh bên cạnh, cô hát véo von, hết bài này sang bài khác. Anh cũng dở bài tán, đọc lên mấy câu thơ tình của mình, khiến cô bé thich lắm. Cô khen thơ hay rồi bắt đọc thơ nữa, nhưng anh thì lại chán. Anh vờ chiều nhưng cũng không thích cái tính trẻ con của cô bé. Tuổi đôi mươi, học hết cấp hai rồi lên đây, tính trẻ con là phải thôi. Riêng cô bé này có biệt tài, dăm chục con bò cô chăn thả, cô thuộc dáng hình của từng con, đến mức ở rất xa, hễ chỉ đến con nào, cô cũng đoán trúng phóc tên số của con ấy. Anh đã thử tài cô mầy bận và cô chưa bao giờ sai.

Còn với Lan, anh chuyện trò nhiều hơn cả, bởi tính cô xởi lởi, tự nhiên, không né tránh kiểu Duyên và cũng không làm ra vẻ trẻ trung hồn nhiên như Hương. Lan quê Thái Bình, kém anh  vài tuổi và đã có thâm niên tại nông trường dăm năm rồi. Một sáng chủ nhật, khi anh vẩn vơ bên đường, có ý quan sát quang cảnh, thì bắt gặp Lan. Cô rủ anh cùng đi hái nấm với cô, anh vui lắm. Lan bảo, mùa hè, sau những ngày có mưa, nấm sẽ mọc nhiều. Điều này thì anh hiểu, vì hồi còn ở quê, những ngày mưa nhiều, khi đi thả trâu cùng đám trẻ làng, anh cũng đã từng lấy được nhiều nấm, loại nấm cỏ, từng cái to nhỏ như trứng gà, như củ khoai tây nảy nhan nhản ở sườn bờ mương. Hái về, thái thành lát xào lên, hoặc xắt đôi kho kỹ với tương, ăn rất ngon. Anh và Lan tha thẩn trên đồng cỏ, vừa dõi mắt trên mặt đồng cỏ tìm nấm, vừa hỏi chuyện nhau. Cô kể, hồi ở quê, thỉnh thoảng được đi xem chiếu phim, thấy cảnh nông trường ở Liên Xô, có những cánh đồng lúa mì bát ngát, những đàn bò sữa cao lớn gặm cỏ nhởn nhơ trên thảm cỏ xanh bao la, thì cô thích lắm, ước ao một ngày kia thoát ly khỏi làng que nghèo, trở thành công nhân nông trường. Vậy khi có người làng sống ở trên này, về thăm quê, bảo ở đây đang tuyển công nhân nông trường, giống như cảnh phim cô đã xem thì cô háo hức muốn đi ngay. Và cô đã trở thành công nhân nông trường Châu Mộc. Tuy không đẹp mơ mộng như phim ảnh thì công việc cô đang làm cũng tạm ổn. Chỉ mỗi tội, ở đây ít nam giới, mà chị em thì quá đông. Lan bảo, ông giám đốc nông trường thương các cô lắm. Có lần ông nói vui rằng, nếu pháp luật cho phép đàn ông được lấy nhiều vợ, thì ông sẽ lấy mười vợ để giúp một số cô có gia đình. Lại có lần, ông giám đốc bảo, cứ tình cảnh này thì các nữ công nhân bỏ nông trường về quê lấy chồng hết, rồi ông lại ước ao, ở gần đây, có vài đơn vị bộ đội thì tốt quá. Ông giám đốc, còn kêu gọi các chàng sinh viên hãy lưu tâm giúp ông điều đó, tuy nhiên, không phải là cái cách, mỗi đợt sinh viên về thực tập, kết thúc mỗi đợt, để lại vài ba cô công nhân bụng mang dạ chửa và sau đó là những đứa trẻ không cha…mà phải thực sự gắn bó với nông trường, lấy vợ và ở lại đây.  Đấy là những gì Lan nói cùng anh khi hai người đi hái nấm với nhau. Chốc lát, chiếc làn cô mang theo đã đầy ắp những trái nấm trắng ngà nhìn thật ngon mắt. Trời đang nắng đẹp chợt mây đen kéo lên rất nhanh, và cơn mưa bóng mây đổ xuống, hai người vừa chạy vừa cười đùa, khi trú được vào một lán trại thì quần áo cả hai gần như ướt hết. Lan tỏ ra ái ngại khi quần áo ướt bết vào thân hình cô. Biết cô ngượng, anh vờ nhìn lảng ra đồng cỏ, song thế cũng đủ để cảm nhận được sự hấp dẫn toát ra từ dáng vè thanh xuân đầy sức sống nơi cô. Cầu vồng bảy sắc bừng giăng chân dãy núi xa xa, anh nhìn trộm Lan và vờ nhìn cầu vồng than:’Tưởng mưa bóng mây thì nhanh, nhưng không ngờ lâu tạnh thế nhỉ?”. Cô chỉ ầm ờ, lén gỡ từng mảng quần áo ướt bết vào người, mặt đỏ bừng…

#

Và một lần, nhóm sinh viên của anh trực kỹ thuật đêm. Đêm ấy, Lan là công nhân trực kỹ thuật chính. Chập tối, Lan thông báo, rất có thể đêm nay, sẽ có bò đẻ, bởi theo bảng theo dõi kỹ thuật và thăm khám thực tế, khả năng sẽ có vài con bò mẹ sinh nở nay mai. Thế nhưng, anh bạn cùng ca trực với an bảo là thấy người ơn ớn như sốt, xin về trước vì ngại sương đêm sẽ ốm. Vậy là, chi còn lại có anh và Lan, nên anh có chút gì đó hồi hộp... 

Lan luôn chân luôn tay, nhóm bếp củi rồi bắc lên một nồi nước to, nói là để có nước sôi sát trùng dụng cụ, chuẩn bị cho bò đẻ. Anh ngồi canh chừng bếp lửa, thêm củi, gạt tàn. Đêm mùa hè mà sương dày đặc. Anh hỏi bâng quơ:

- Này em, mùa hè ở đây lạnh vậy sao?

- Khí hậu cao nguyên mà anh… Thế mới nuôi được bò sữa chứ, anh  - cô cười – Ôi, em quên mất, anh là kỹ sư đến nơi rồi mà em lại đi giải thích cho anh. Em xin lỗi nhé.

Cô cất miệng hát một đoạn chèo, hình như điệu Đường trường thu không thì phải, nghe man mát buồn...

Thấy anh vẫn ngồi im lặng, Lan gợi chuyện:

- Em hỏi đùa nhé,... anh tên Mạnh, nhưng sao cứ nhan nhát làm sao ấy... Dáng dấp thì  thư sinh ... cứ như là... con gái ấy – Cô lại cười – Hay là, anh ...

Lan bỏ lửng, lại hát tiếp câu chèo đang bỏ lửng.

- Thì bố mẹ mình để mãi toàn con gái, út ít đến mình là trai, nên đặt tên vậy cho vẻ khí thế... Cha mẹ sinh con, trời sinh tính mà...Anh cũng đang cố làm cho mạnh mẽ đây – Anh chống chế, đùa lại.

- Thì cứ như em đây, tên khai sinh trong giấy tờ là Lang, khoai lang ấy. Chả là mẹ em đẻ rơi em ở ruộng khoai lang, nhà đông con nên đặt tên là Lang cho dễ nuôi, mà anh. Tên làm sao, người bao hao làm vậy, thế nên người em giờ cứ nuột nà nhẵn nhụn như củ khoai lang đấy thây – Cô cười to khiến anh cảm thấy thoải mái, dễ chuyện hơn – Bọn con gái ở đây trêu em, bảo là, ai lại tên Lang, khoai lang cơ chứ, quê mùa chết ấy. Thế rồi, chúng nó cắt của em cái chữ “g” thành ra Lan. Gọi thế hay anh nhỉ? Mà anh có thấy, ở đây, hoa phong lan rừng đẹp tuyệt vời không?... Giờ thì mọi người ở đây toàn gọi em là Lan thôi...- Cô dừng chuyện, giọng buồn buồn -  Này anh, nghe nói hôm trước, cái con bé Tẻo nó xông vào chỗ các anh quấy quả đấy à?

- Ừ, … nhưng mà…nghe nói cô ấy bị căn bệnh oái oăm gì thì phải?

- Vâng anh, chẳng rõ, nhưng người ta bảo nó điên tình... là cái bệnh phát do thiếu đàn ông ấy. Nó phát bệnh như vậy mấy lần rồi… Rõ khổ cái Tẻo, người gợm như vậy, đàn ông nào nó màng. Đến như chúng em đây, nghĩ chẳng đến nỗi nào mà cũng chẳng có ma nào thèm ngó nữa là... Lâu lâu, rồi bọn em cũng đến phát bệnh như nó mất...

Lan như xịu xuống. Quả là, vài hôm trước, tối muộn, khi cánh con trai tán gẫu chán chê, đang định đi ngủ, thì của nhà bật mở tung. Tẻo xông vào, miệng huyên thuyên không rõ, choàng ôm chặt một cậu giường gần ngay cửa vào. Cậu ta sợ quá, vùng người gỡ tay Tẻo ra nhưng cô này ôm chặt quá, miệng cô lại sùi bọt như người lên cơn động kinh. Mấy cậu khác sợ quá, ré lên, quáng quàng nhảy bắn ra khỏi nhà. Một cậu liều xông vào gỡ giúp cậu kia, gỡ được rồi cùng bỏ chạy hết ra ngoài. Tẻo gầm gừ, chừng mắt đuổi theo, cho đến khi mấy cô công nhân chạy đến, ôm ghì và lôi Tẻo về khu nhà nữ công nhân. Anh cũng hoảng, lần đầu tiên biết thế nào là điên tình.

-Giá cứ sống ở quê, tuổi này như em chắc con bồng con bế cả rồi. Nghe nói ở quê, chiến tranh hết, mấy năm nay, bộ đội phục viên, xuất ngũ về đông lắm. Dẫu chẳng được người lành lặn, thì thương binh, cụt chân cụt tay cung chả sao, miễn là còn cái ấy... Lan nhìn anh cười - Biết đâu lại vớ được chàng trung úy cũng nên,- và cô cất tiếng hát đùa “ tình tang tình, em đi rình trung úy…”

Cô cười to khiến anh bật cười theo, thú vị :

- Người như em, kiểu gì mà chẳng lấy được chàng trung úy, mà thiếu tá cho oách, em ơi... Nhưng mà thôi, chẳng lẽ. giờ bỏ về? Chịu khó ở đây săn một chàng kỹ sư nào đó, em ạ.

- Vậy à? Em chẳng tin – Cứ  hết đợt sinh viên này về, rồi đi... rồi lại đợt khác, mà có đứa nào bắt chết được ai đâu... Giọng cô buồn hẳn – Đấy, cứ như cái Duyên, anh biết rồi đấy, xinh và duyên thế, năm trước có một chàng kháu đáo để, ngỏ lời yêu nó. Những tưởng mặn nồng, cưới nhau đến nơi rồi, mà nó cũng được chàng đưa về tận thủ đô thăm nhà, giới thiệu với cha mẹ... Nhưng rồi, nàng trở lên, ỉu xìu, thất tình, nghe nói chàng vẫn thiết tha lắm, song cha mẹ thì đâu có chấp nhận cô con dâu là công nhân chăn bò nơi xó xỉnh rừng xanh núi đỏ, cơ chứ?...

Lan bỏ lơi câu chuyện, nhưng thấy anh lặng lẽ cời củi bếp, lại tiếp:

- May mà, còn chưa kịp vác cái trống ỏng, kẻo ê mặt mà lại nuôi con một mình – Lan chép miệng – Cũng chẳng biết thế là may hay không... Có khi, có thai, kiếm được đứa con, nếp tẻ gì cũng được, phòng thân, ngộ nhỡ sau này “chống ề” thì cũng có đứa con nương tựa tuổi già...

Quả là, chuyện này, anh không dễ nói, vì chính anh nay cũng đã thành người của câu chuyện đó rồi. Biết nói gì, thanh minh cho người ta à? Còn anh thì sao, nếu ở vào hoàn cảnh như chàng sinh viên nọ?

- Anh biết không, có mấy chị lơn lớn tuổi ở đội này, cũng đang nuôi con một mình đấy. Anh để ý, có vai ba ngôi nhà tranh bên rìa đường đi vào bản người Mông, là nhà của các chị ấy đấy. Nhỡ có con rồi , sinh hoạt tập thể cũng khó, nên Nông trường cám cảnh, cho mượn đất làm nhà tạm để ở... - Lan tiếp câu chuyện.

- Thế có biết cha mấy đứa trẻ là ai không? Họ có biết và quan tâm đến chuyện này không? Anh thăm dò.

- Em cũng chẳng rõ nữa ...- Cô xa xôi, rồi giọng tự nhiên đanh lại – Thà có con rơi với các chàng sinh viên, còn đáng hơn có con với con khỉ đột gớm giếc ở đây...

- Là em... muốn nói tới tay Thiết, đội trưởng phải không? Anh dò đoán vì ít nhiều nghe mọi người rì rầm về con người này.

- Đồ khỉ đột. Gớm giếc lắm... – Cô như nghẹn giọng - Hắn chăn bọn con gái, nhất là đứa nào người gợm mặt mũi sáng sủa chút,… hắn giống như chuyện con dê đực, sáng ra đứng cửa chuồng canh từng con cái một để làm cái chuyện súc vật ấy..

- Đến vậy sao? Anh ái ngại, so người, bất lực. Chẳng hiểu Lan có nhìn thấy bộ dạng và cử chỉ của anh không?

- May mà, năm nào cũng có những đợt sinh viên về đây thực tập. Có các đoàn khách, lão ta đành bớt đi, giả bộ xởi lởi, là sợ mang tiếng này nọ đấy thôi. Còn không, chỉ có người ở đây với nhau, lão ấy dữ lắm, như quỷ ám ấy, anh ạ. Các anh về đây bao lâu, bọn em được dễ thở và thoải mái bấy nhiêu... Ngay như tối nay, vì lão ấy nghĩ em trực cùng một nhóm vài ba người, chứ mà biết chỉ còn em và anh thôi thì thế nào lão ấy cũng mò ra... Mà cũng chả biết đâu, lão ấy lại lù lù xuất hiện ngay bây giờ, cứ như ma xó ấy - Cô nói giọng ớn lạnh, anh nghe cũng gai người.

- Chắc là... lão ấy thích em?... – Anh nói nhỏ và có gì đó như ghen tuông - Đúng thế chứ ?...

- Cũng chẳng rõ ... Em ghê sợ lão ta – Em chẳng được cứng cõi như cái Duyên, nó đã thẳng thừng cự tuyệt lão ấy. Lão ấy thích nó lắm. Không xơ múi gì, nên lão ấy căm nó, anh ạ. Em thì ... em, cứ sờ sợ là...

- Sợ gì lão ấy, còn có ... mọi người - Anh xuýt buộc miệng- còn có anh,- thì kịp ngưng, đổi cách nói.

Thực tình, anh làm gì có sức, có quyền, có điều kiện và kể cả sự can đảm kiểu “người hùng cứu mỹ nhân” cơ chứ?!... Vả lại, anh có định ăn đời ở kiếp đây đâu, chẳng qua, vài tháng thực tập rồi về. Hoặc giả, có anh hùng anh trưởng, ra mặt bệnh vực cô thì chỉ tội mua thù chuốc oán cho cô mà thôi. Nghĩ vậy, máu yêng hùng trong anh dịu lại. Lan chuẩn bị xong công việc, cô lấy đâu ra mấy bắp ngô, củ sắn, ra bếp lửa ngồi bên anh, lặng lẽ cho ngô và sắp vào bếp than hồng nướng.

- Thức đêm là hay đói lắm anh à. Anh em mình chịu khó nướng, lát nữa ăn – À, nếu có bò đẻ, mai kia em sẽ chiêu đãi anh món sữa đầu. Ngon lắm anh ạ. Anh đã ăn sữa đầu bao giờ chưa? – Rồi không đợi anh trả lời –cô liến thoắng – Sữa đầu không lấy làm thương phẩm được vì nó quá nhiều chất béo, dễ sinh men làm hỏng sữa, nên mọi người được lấy ăn thoải mái. Chỉ cần nấu chừng khoảng bảy, tám mươi độ là nó đóng bánh đặc sệt lại, bổ và ngon tuyệt.

Anh và cô, lặng lẽ nướng ngô sắn. Anh liếc trộm, má cô đỏ hồng lên, gương mặt tròn xinh có phần quyến rũ, mắt to đen nhìn vào ngọn lửa đầy xa xôi. Lòng anh dâng lên một mối thương cảm. Bản thân, anh đã trải qua mối tình đầu, từng thất tình và thất vọng, anh hiểu được sự trống vắng, cô lẻ. Cứ mãi nơi này, tìm đâu ra một bóng đàn ông cho ra hồn? Rồi anh lại tự hỏi mình, với Lan, tình cảm của anh ra sao? Anh có thích cô không? Rõ ràng là có. Nhưng anh cũng thích và còn để ý đến Duyên, đến Hương. Vậy tức là anh chơi trò phiêu lưu theo kiểu tìm cảm hứng tình cảm thoáng qua rồi. Thực lòng, anh có bị cuốn hút bởi vẻ đẹp lành  lạnh, xa cách và bí ẩn của Duyên, song anh cũng thích sự thân thiện, xởi lởi, chân thành và sự khỏe mạnh đầy nữ tính của Lan. Còn về tương quan, rõ ràng, anh và Lan hay chuyện trò và gấn gũi, thân tình với nhau hơn. Giờ đây, anh được ngồi sát bên cô, cảm nhận được sức hút, mùi vị đàn bà từ nơi cô, trong một phong cảnh nên thơ huyền bí như ảo, đồng cỏ mênh mông chìm trong sương đêm, se lạnh, trăng muộn cuối tháng mờ tỏ đầu núi, bếp lửa bập bùng... Cảm nhận sự gần gụi, anh lại nghĩ xa... Lúc mới lên đây, còn ở nhà khách Nông trường Bộ, anh đã từng bắt quen với một dược sĩ nghiên cứu sinh điển trai  lịch thiệp đang là nghiên cứu sinh về cây dược liệu cho đề tài Phó tiến sĩ của anh ta; rồi anh cũng đã xem đoàn làm phim lên đây quay nhiều cảnh cho bộ phim truyện về đề tài vận động người Mông vào nông trường, với cô diễn viên xinh đẹp thủ vai chính; rồi chính anh, bắt gặp chàng dược sĩ và nàng diễn viên xinh đẹp sóng đôi tình tứ đi chơi đêm hút bóng vào đồng cỏ; lại cũng anh, chứng kiến cảnh một anh chàng cao to đẹp giai râu quai nón như tài tử xi-nê nước ngoài, từ Hà Nội lên, chẳng rõ là chồng hay người yêu của nữ diễn viên nọ, cãi cự nhau, động thủ kiểu ghen tuông... Tình yêu và tình dục, là vậy ư?... Giờ đây, anh và cô, như hút vào nhau. Ban nãy, cô đã đùa trêu anh, tên là Mạnh nhưng lại đầy thư sình và nhát quá đấy thôi... Cô cũng nói chuyện, nhiều chàng sinh viên về đây, khi về xuôi đã để lại giọt máu rơi của mình,... rồi cả chuyện, các nữ công nhân chủ động kiếm đứa con phòng nương tựa sau này... lại cả chuyện tay Thiết quỷ ám, luôn rình rập, gạ gẫm các nữ công nhân, trong đó có cả cô... Hẳn là, cô có ý bóng gió, xa xôi? Chắc là, cô đang muốn điều gì đó ở anh?

Lan lấy ra ngô và sắn  đã chín – Anh ăn đi, nóng mới ngon – Giục anh ăn, cô thừ người, rồi như nén tiếng thở dài, cất giọng hát một đoạn chèo điệu sử rầu buồn thảm, trong vở Quan âm Thị Kính, khi Thị Kính phải đi xin ăn để nuôi con của Thị Màu… Anh ăn ngô nướng, nghe mà lòng nghẹn thắt, khó nuốt... Có gì như trách cứ, ai oán... Cô trách anh sao?  Trong khi anh lại ý thức trách nhiệm, vì nhà trường đã phổ biến nội quy thực tập, đặc biệt lưu ý, các sinh viên nam phải giữ mối quan hệ nghiêm túc, đúng mực với các nữ công nhân nông trường, tránh việc quan hệ nam nữ bừa bãi ngoài hôn nhân, và nếu ai vi phạm, tuy mức độ mà xử phạt, có thể không cho thi tốt nghiệp, hoặc đuổi học. Nghĩ mà kinh.

Cô bỏ lửng câu hát, nín thinh, rồi nghe như có tiếng nức nở. Anh se sắt thương cảm, lại có gì đó bừng dậy sức nóng đàn ông...

- Thương Thị Kính, anh nhỉ ... nhưng Thị Màu còn tội nghiệp, đáng thương hơn, ... nàng ta có lỗi gì đâu... anh nhỉ?...- cô cảm động.

Anh bừng tỉnh, choàng tay qua người cô, kéo riết về phía mình– Không sao mà – Anh chỉ nói được có thế - Cô ngả hẳn đầu vào bờ vai anh. Anh vuốt tóc, chạm vào má cô, cảm nhận được những giọt nước mắt. Bàn tay cô dẫn dắt bàn tay anh tìm kiếm... Anh mụ mị đi và hai người xoay lại ập vào nhau, nụ hôn dính chặt, những cánh tay xoắn xuýt, cái ghì xiết lại...

- Ôi thôi chết,... – Cô bừng tỉnh, gỡ môi khỏi cái hôn nghẹt thở, ngơ ngác, thất thần... – Anh ơi, con bò sắp sinh rồi !...

Cô vùng khỏi vòng tay ôm của anh, cuống quýt, chân tay luýnh quýnh như thừa, không biết phải làm gì. Anh choáng váng, vẫn u minh chưa hiểu ra sao. Cô giục anh:

- Anh vào đây, giúp em với, bò mẹ đang sinh. Em vừa thoáng nghe tiếng bò mẹ, em biết...

Cô chạy vội vào chuồng ngay cạnh đấy, nơi nhốt con bò mẹ đang sinh, khi anh vào đến nơi, thấy cô đang loay hoay, đỡ phần đầu và hai chân trước con bê đã thòi ra giữa hai chân sau con bò mẹ. Chấn tĩnh, cô tỏ ra thành thạo với công việc, anh thì loanh quanh vòng ngoài, chờ cô sai bảo việc gì thì làm theo việc nấy. Tự thân, thấy ngường ngượng, nghĩ mình sắp thành kỹ sư rồi, ngoài mớ lý thuyết suông ra, thực tế công việc thì phụ giúp cho cô không xong. Ca sinh suôn sẻ, chú bê ra ngoài, lóng ngóng một chút cũng đứng lên được khi cô nâng đỡ. Bò mẹ liếm láp cho con vẻ an lành, trìu mến, và bê con đã biết rụi đầu vào bụng, tìm vú mẹ.  Cô dọn dẹp cho sạch sẽ. Anh quay lại bếp lửa thì khẽ giật mình khi thấy tay Thiết đội trưởng đã lù lù ngồi đấy rồi. Anh khẽ chào. Hắn nhìn anh bằng con mắt rưỡi, đầy vẻ dò la, nghi ngờ, mặt lạnh như tiền bảo:

- Tôi đến đây từ nãy, không đánh tiếng, thử xem anh chị làm ăn thế nào. Ca đẻ suôn sẻ nhỉ. Được đấy, cô Lang ơi...

Hắn nói to, gọi cô bằng tên tục. Lúc ấy, cô mới biết sự có mặt của hắn, và vâng dạ cho qua chuyện. Hắn nhìn anh chằm chằm, ỡm ờ:

- Này cậu, ca trực của sinh viên các cậu tối nay, tưởng có mấy người cơ mà, sao lại chỉ mỗi mình cậu vậy?

Anh giải thích sơ qua lý do sao lại có mình anh trực, hắn ngúc ngắc cái đầu nhỏ như chim sẻ, nhìn cô, dò trống không:

- Chắc không có chuyện gì chứ ? Cô, cậu?

- Chuyện gì là chuyện gì ạ? Em không hiểu – cô bình thản, và hình như cô cố giấu đi cái cười mỉa.

Anh không sợ gì hắn, nhưng trong lòng cũng sinh ái ngại. Hồi nãy, nếu bò mẹ không sinh con đúng lúc ấy, thì không biết, trong vòng ôm của nhau, anh và cô sẽ ra sao ? Rồi hắn xuất hiện, bắt quả tang hai người... và làm toáng lên... rồi nữa, chuyện này sẽ đi đến đâu?... Anh nhìn cô, nhìn hắn, cố làm như vô sự. Hắn bảo:

- Thôi khuya rồi, công việc cũng xong rồi... Cậu về đi, không phải trực nữa. Tôi đợi cô Lang dọn dẹp xong rồi về sau – Hắn đuổi khéo anh.

Điều anh lo ngại, là anh về rồi, chỉ còn hắn với cô, hắn sẽ làm gì cô? Cưỡng bức chăng, khi rõ ràng hẳn tỏ ra ghen tức với anh, và thái độ của hắn có gì đó đầy mưu mô, thủ đoạn? Anh nhìn cô dò hỏi. Cô vẫn bình thản, lấy mảnh giấy báo, gói mấy bắp ngô và củ sắn đã chín, đưa cho anh, nhìn thẳng vào mắt anh cái nhìn như ra hiệu rằng hãy yên tâm:

- Xong cả rồi, anh Mạnh về đi, anh cầm cả gói ngô sắn nướng này về cho mấy anh chị sinh viên cùng ăn. Em cũng xong ca trực rồi, về luôn đây. Anh yên tâm, em không sợ ma đâu... – Cô bật cười – mà có anh Thiết đây,…ma nó cũng sợ mất vía. Anh Thiết nhỉ?

- Vâng... hắn xẵng giọng – Các cô ở đây, tôi thấy, có cô nào sợ ma đâu,... Còn cô, ma nó sợ cô thì có...

Anh ôm bọc ngô sắn trong tay, bước thấp bước cao. Quãng đường từ trại trực về chỗ anh ở chỉ già trăm mét mà anh đi mãi, bởi chốc chốc, lại ngoái đầu nhìn về hướng trại, nghe ngóng, xem có động tĩnh gì không. Về đến khu nhà ở, anh nép vào đầu hồi ngầm quan sát, cho đến khi nhác thấy bóng hai người đi về gần đấy, và anh nghe tiếng cô nói chuyện khá to, cứ như là thầm báo với anh, rằng cô không sao, chằng có chuyện gì xảy ra…

Đêm ấy, anh mất ngủ, đầu óc cứ ong ong những gì vừa xảy ra ... Anh thiếp đi và bừng tỉnh dậy, lắng nghe, trời còn tinh mơ. Anh nhẹ ra khỏi giường khi mọi người vẫn còn ngủ. Mở cửa nhìn ra, trời đất thảo nguyên ban mai thật tinh nguyên...

 

 

           

            Cũng như đêm năm nào, anh khó ngủ, cứ miên man trôi dạt trong dòng ký ức. Đêm năm nao mất ngủ, khi ấy, anh chộn rộn bởi sự bột phát tình cảm và lo lắng cho cô bị tay đội trưởng ma quỷ xâm hại. Giờ đây, là sự thức dậy của tiềm thức và sự chiêm nghiệm cuộc đời. Anh đã trải qua những mối tình, được mất, cuộc sống cũng thành bại, đây đó. Cao nguyên châu Mộc không còn sự tinh khiết, trinh nguyên và hoang sơ của ngày xưa, mang vẻ đẹp mộc mạc của cô gái quê pha chút rung núi, còn bây giờ có vẻ đẹp của sự kiến tạo, kiểu vẻ đẹp của thiếu phụ biết son phấn ăn diện và làm dáng. Non sông thay đổi là thường tình, nhưng lòng anh thì đã đằm một châu Mộc xưa cũ rồi.

          Mươi năm gần đây, do tính chất công việc, năm nào anh cũng ngang qua vùng đất thảo nguyên này vài ba lần. Cũng có đêm ngủ lại, cùng đó là các cuộc rượu say nghiêng ngả. Nhớ có lần, trong một tiệc vui, anh có khoe, mình đã từng thực tập ở đây, rằng này nọ. .. Chuyện sinh ra chuyện, có một cậu thanh niên điển trao nhận vui, bảo:” Này bố…có khi bố là bố đẻ của con đấy… Ngày xưa, bố thực tập ở đội ấy chứ gì, mẹ con cũng là công nhân ở đội ấy đấy… Tính thời gian bố ở đấy, so với tuổi con hiện nay, rất có thể, con là con rơi của bố, bố ơi !...”. Rồi cứ một lần gọi “Bố”, cu cậu lại chuốc anh một chén rượu. Hăng lên, anh cũng gọi cậu ta là “con”, rồi cả tiệc cụng ly, reo hò rôm rả, bảo chúc mừng cho bố con nhận nhau. Lúc say, cu cậu rụi đầu vào vai anh lè nhè: “Bố ơi, bố còn miếng đất nào ở Hà Nội không? Bố cho con nhé… Con sẽ đưa mẹ con về dưới ấy… sống cả đời trên này,…chán lắm rồi, bố ạ… Cho bõ cái công, bố bỏ rơi hai mẹ con ngần ấy năm trời…”. Anh say, cứ ầm à cho qua chuyện. Cu cậu nhè nhè: “Hay là…Bố sợ con đòi đất à?... Thôi, đất cát, chuyện ấy tính sau… Hôm nay, nhân bố con mình gặp nhau,… bố là bố cứ kỷ niệm thằng con giai bố quả máy ảnh G11 này,..”. Miệng nói, tay cu cậu giằng giằng chiếc máy ảnh đeo lủng lẳng trước ngực anh. Chuyện vui là vậy, nhưng anh cũng đã ngầm hỏi đây đó, xem còn dấu tích gì của Lan không. Nghe đâu, cô lấy chồng vài năm sau đó, giờ nhà cửa con cái ở đấy, cũng gần nơi đội sản xuất cũ. Giờ đây, nông trường sản xuất tập trung xưa cũ không còn, thay vào đó là công ty cổ phần, đât đai, nương chè, đồng cỏ, bò sữa đều giao khoán hộ. Chuyện về cô nghe vậy, song chẳng rõ thực hư, nhưng thời gian quá lâu, nên giờ đây nghĩ lại, chỉ chút xao lòng, nhẹ như một tiếng thở dài…

          Khó ngủ lại hay dậy sớm. Sáng ra, anh tỉnh ngủ, kéo của kính phòng nơi tầng cao khách sạn, nhìn ra xa. Vẫn còn đó những cánh đồng chè, nhưng nhà cửa đã san sát. Cứ tốc độ này, nếu không gìn giữ, thì chẳng mấy Châu Mộc sẽ mất đi thứ quý nhất, ấy là khí hậu cao nguyên đặc trưng, sương mù và se lạnh ngay giữa mù hè. Anh nhìn quanh quất, thử tìm hướng đi vào đội sản xuất năm xưa anh thực tập. Anh mất phương hướng bởi giờ đây chẳng còn gì dấu vết xưa. Cảnh thay thì người cũng đổi là thế.

          Sau bữa ăn sáng, anh cán bộ địa chính đến khách sạn, đón đoàn của anh đi thăm khu di tích Trung đoàn Tây Tiến mới được xây dựng vài năm nay. Rồi nữa, ghé thăm thác Giải yếm, một thác nước rất đẹp đang được khai thác thành khu vui chơi giải trí. Gần trưa, cậu cán bộ địa chính mới đưa Quân đi tìm đất mua làm trang trại. Loanh quanh vài ba chỗ, Quân xem có vể không thích. Định thôi thì chợt anh cán bộ địa chính nhớ ra, dẫn mọi người loanh quanh một hồi nữa, đến một khu vườn trại, phía trước là tường cao, có cồng ra vào chắc chắn. Người chủ bán đất vưa kịp phóng xe máy đến, dẫn Quân và cậu địa chính vào xem đất vườn. Nắng lên, mệt vì đêm qua mất ngủ, anh ngồi lại trong xe, lim dim ngủ. Chợt anh nghe tiếng người nói to, choàng tỉnh. Nhìn ra, trước cổng vườn, Quân và anh địa chính đang nói chuyện với nữ chủ vườn. Nhìn kỹ, anh ngây người bởi cô chủ giống Lan quá. Lúc nãy, cô mặc áo chống nắng, kính râm và mũ bảo hiểm che kín nên anh không tường mặt. Có lẽ nào là Lan, cô công nhân anh quen biết ngày nào? Người thì giống, tính độ già đi sau từng ấy năm cũng tương đồng. Duy chỉ có tên thì không đúng. Anh nghe rõ cậu địa chính gọi chủ vườn là Linh. Còn cô, tên Lan, và gọi theo tên tục là Lang, đâu phải là Linh. Không phải chăng? Hay cô lại đổi tên? Hoặc giả, vì lý do nào khác nữa?

          Anh chộn rộn, khó tả. Chưa định thần, thì mọi người chào chia tay nhau và cô chủ đóng cổng khuất vào bên trong. Trở lại xe, Quân khen đất được, nhưng mua hết thì nhiều tiền quá. Quân phân vân, bảo sẽ rủ người chung vốn mua cả khu vườn trại, rồi vui miệng rủ anh. Hay là, anh nảy ý định, nếu Quân quyết, anh sẽ chung mua. Biết đâu, gặp lại, đúng là cô ấy?...

          Ngày ấy, anh không quên Lan. Sau đêm đó, chừng hơn nửa tháng, nhóm của anh rút về Nông trường Bộ, thị trấn Nông trường ngày nay. Có lần, trước khi về xuôi, anh và mấy đứa bạn thân rủ nhau đi thăm bản người Mông. Bọn anh đi nhờ được xe tải của quân đội. ngang qua đó, song lúc về, phải đi bộ, anh nán lại, tranh thủ ghé vào thăm. Chỉ gặp Duyên và Hương, còn Lan lại ra chơi thị trấn thăm nhà người quen từ sang, chưa về. Không gặp lại cô, anh buồn, không hẳn vì nhớ nhung tức thì, song ít nhiều, anh và cô có điều riêng với nhau để mà nhớ mãi về sau…

          Kết thúc đợt thực tập, anh cũng không gặp lại Lan. Thực lòng, anh e ngại và chưa đủ sức mạnh tình cảm để một mình trở lại đó, chia tay riêng với cô. Khi về trường, anh có viết vài bức thư gửi lên, trong đó có thư cho Lan. Và cũng chỉ riêng cô hồi đáp thư  anh. Thư ngắn gọn, nét chữ to tròn, ngồ ngộ. Nội dung, tình cảm chung chung và có gì đó xã giao, anh cố tìm nhưng không thấy chút gì riêng tư ở đó. Và câu chuyện chấm dứt, khi anh gửi cô thư nữa, nhưng không có hồi đáp. Cũng có thể, anh tốt nghiệp ra trường, nên thư cô gửi lại thất lạc chăng? Và rồi, trước khi nhận quyết định vào Nam công tác, anh gặp lại người bạn học cũ ở Hà Nội, là giáo viên đi nhận công tác ở một trường học gần quê anh. Anh đi xa, để lại sau lưng, một người mẹ già, và một mối tình với người bạn giáo viên ấy…

          Rồi anh cũng thất bại trong chuyến đi xa và mối tình để lại. Lại những cuộc kiếm tìm mới, anh lập gia đình khi đã cứng tuổi. Thi thoảng, anh vẫn nghĩ đến cô, phảng phất như một một lặng buổn xưa cũ…

          Giờ gặp lại nhau ư, rất có thể là vậy? Nhưng chẳng để làm gì, anh còn nhớ đến cô, song chắc gì cô còn nhớ đến anh.

          Hay chăng, cứ để câu chuyện cũ là một ký ức đẹp và buồn!... ./.

 

 

                                                                                                                                   

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *