Thu về trên tóc/ Đông đọng trong hồn/ Nhổ được tóc bạc/ Nhổ chăng nỗi buồn? (Hỏi mình - Phạm Đức)
Gửi thư    Bản in

Cần đặt vấn đề di sản ngôn ngữ

Lại Nguyên Ân - 05-12-2011 05:37:04 PM

VanVN.Net - Lâu nay khi nói đến di sản văn hóa dân tộc, người ta kể ra khá nhiều loại, song hình như rất ít người kể đến một loại hình di sản rất căn bản: di sản ngôn ngữ. Điều đáng nói là, so với những loại di sản văn hóa như di tích lịch sử, ca hát dân gian… thì các loại di sản ngôn ngữ chứa đựng hàm lượng tri thức và sáng tạo cao hơn, đậm đặc hơn.

Ngôn ngữ là một loại hình tài nguyên nhân loại; sự hình thành các dân-tộc-quốc-gia luôn diễn ra đồng thời với việc tạo ra hoặc lựa chọn một hoặc một số ngôn ngữ (gồm phần lời nói và dạng chữ viết tương ứng) trong mỗi thời kỳ nhất định làm công cụ giao tiếp chung trong cộng đồng dân-tộc-quốc-gia, làm phương tiện cho những sáng tạo tri thức hoặc sáng tạo nghệ thuật dùng vật liệu ngôn ngữ. Trong các loại hình di sản mà một dân-tộc-quốc-gia có được sau những thời đại phát triển lịch sử nhất định bao giờ cũng có loại hình di sản ngôn ngữ, bao gồm các thành tạo ngôn từ cả dưới dạng lời nói lẫn các tác phẩm chữ viết. Dưới dạng lời nói là hệ thống thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca, chuyện kể… Dưới dạng chữ viết có thể là các sáng tạo về tri thức (tạm gọi chung là trứ thuật), cũng có thể là các sáng tác nghệ thuật (đây là nghệ thuật ngôn từ, tức là những sáng tác văn chương, văn học); những con người làm ra các tác phẩm chữ viết ấy là tác gia. Di sản ngôn ngữ, như vậy, vừa có loại thuộc di sản phi vật thể, vừa có loại thuộc di sản vật thể.

Các dạng văn tự từng được người Việt sử dụng có thể có nguồn gốc ngoại lai hay nội địa, nhưng những sản phẩm được tạo ra bằng văn tự ấy thì chắc chắn chỉ thuộc về văn hóa Việt. “Chiếu dời đô” hay “Bình Ngô đại cáo” được viết bằng chữ Hán nhưng là tác phẩm của văn hóa người Việt, cũng giống như “Tuyên ngôn độc lập” (1776) viết bằng tiếng Anh nhưng hoàn toàn thuộc về người Mỹ.  

Lịch sử sự trứ thuật và sáng tạo bằng ngôn ngữ của các cộng đồng dân cư Việt Nam gắn với nhiều ngôn ngữ và chữ viết mang tính quốc gia hoặc quốc tế khác nhau, nhưng được xem là đã được sử dụng nhiều hơn cả chính là dạng văn tự Hán - Nôm và dạng văn tự Quốc ngữ; bên cạnh đó là các văn tự của một số tộc người có chữ viết riêng (như Thái, Chăm v.v…) và các văn tự nước ngoài mang tính quốc tế hóa (như chữ Pháp, chữ Anh v. v…).

Đối với nguồn di sản bằng dạng chữ Hán -Nôm, do gắn với một giai đoạn lịch sử đã lùi vào quá khứ, đến một lúc nhất định, có thể kể là vào những năm 1980 - 1990, do nhận thấy sự mất mát nguồn di sản này đã thành nguy cơ thật sự trước mắt, việc kiểm định và gìn giữ chúng mới được đặt ra ở quy mô quốc gia và quốc tế: đặt vấn đề kiểm định di sản này hiện có ở các nơi trong nước cũng như đang được giữ ở nước ngoài; nguồn kinh phí cho kiểm định và gìn giữ được đảm bảo bằng một phần ngân sách nhà nước bên cạnh nguồn tài trợ quốc tế; lực lượng làm công việc kiểm định và gìn giữ được hưởng quy chế công chức, nằm trong cơ quan chuyên trách thuộc tổ chức khoa học của nhà nước (viện Hán Nôm, các khoa hoặc ngành Hán Nôm tại các đại học chuyên ngành…). Tất nhiên các chuyên gia làm việc liên quan đến nguồn di sản Hán - Nôm này có thể còn thấy nhiều điều chưa vừa lòng, song phải thừa nhận đây là khu vực di sản ngôn ngữ văn tự duy nhất ở Việt Nam hiện nay được tạo các điều kiện tốt đến như vậy để chúng có thể vừa được bảo quản gìn giữ lâu dài vừa được khai thác hợp lý.

Đối với nguồn di sản được sáng tạo bằng dạng chữ Quốc ngữ, dù mới chỉ được dùng trong cộng đồng Việt từ 1865, tức là từ gần 150 năm nay, song do gắn với thời đại phát triển năng động hơn về nhiều mặt, lượng sản phẩm được tạo ra bằng chữ Quốc ngữ (về tri thức, thông tin, nghệ thuật v.v…) là rất lớn; số lượng tác gia cũng hết sức đông đảo. Về mặt đó, một vài công trình mang tính tổng kết chuyên ngành, ví dụ các bộ “Tổng tập văn học”, dù quy mô đến hàng chục ngàn trang, cũng mới chỉ bao gồm được một phần rất nhỏ tác gia và tác phẩm; một số công trình miêu tả lịch sử (văn học sử, sử báo chí, sử văn hóa v.v…) đã xuất bản cũng chỉ mô tả ghi nhận (làm thành thông tin) về một phần nhỏ tác gia và tác phẩm do họ sáng tạo ra suốt gần 150 năm ấy.

Trong khi đó, các vật liệu lưu giữ những di sản từng được sáng tạo ra, tức là những sưu tập báo chí hoặc sách in, trong các thư viện hoặc kho lưu trữ, qua thời gian hàng trăm năm, đều đã ở trạng thái cũ nát, từng ngày từng giờ đối mặt với nguy cơ bị mất mát hẳn. Hậu quả là, phần di sản bằng văn tự Quốc ngữ cũng đang đối mặt nguy cơ bị mất trước khi được lập kế hoạch kiểm định và gìn giữ.

Vậy mà trong cư dân hậu thế chúng ta, nhu cầu tìm biết một cách chi tiết, cụ thể về phần di sản này đang tăng lên, sau những thời gian dài chiến tranh loạn lạc, các cộng đồng cư dân bị mất liên lạc, bị gián đoạn thông tin. Các địa phương từ quy mô lớn (vùng, miền, tỉnh) đến nhỏ (huyện, xã), các bộ phận cư dân (dòng họ, chi họ, gia đình) không chỉ bằng lòng với những nguồn thông tin về “bộ phận tiêu biểu” tác gia tác phẩm của cả nước ở mỗi thời đại lịch sử, mà còn muốn biết cụ thể, chi tiết những tác gia xuất thân từ địa phương mình, dòng họ, chi họ, gia đình mình, và những tác phẩm do họ đã tạo ra và đã từng công bố tại các thời điểm cụ thể.

Nhu cầu nói trên hầu như không được đáp ứng hoặc chỉ được đáp ứng một phần rất nhỏ bởi các công trình mang tính tổng kết lịch sử phát triển về sử học, văn hóa, văn học đã có, là vì ngoài mấy trăm tác gia mà dù ít dù nhiều đã có tác phẩm được hậu thế in lại, tên tuổi được hậu thế nhắc đến, thì một số rất đông tác gia khác, cũng từng hoạt động với tư cách nhà báo, nhà văn, nhưng nay con cháu rất khó tìm thấy dù chỉ một số thông tin ít ỏi về cuộc đời và sự nghiệp, chưa nói đến diện mạo tác phẩm đã từng được viết ra, in sách in báo.

Có ý kiến cho rằng, sự lãng quên là quy luật của thời gian. Tuy vậy, chỉ nên chấp nhận điều ấy ở phương diện sự thưởng thức, thị hiếu của từng bộ phận công chúng, tại một thời điểm nhất định. Ngoài ra, không thể buông xuôi trước tình trạng hàng loạt bộ phận di sản như vậy bị tan nát mất mát theo các ấn phẩm cũ, trong khi còn có cơ hội để có thể cứu thoát chúng. Vấn đề là tổ chức sự hành động.

Một trong những điểm gây nên tình trạng kể trên là tâm lý ỉ lại vào nhà nước, trông chờ vào công việc biên khảo do các cơ quan nghiên cứu của nhà nước đề xuất và tiến hành, trong khi bộ máy nhà nước phải làm việc trước hết trên những lĩnh vực kinh tế xã hội cốt thiết, vả lại phần ngân sách dành cho sự nghiệp văn hóa, trong đó có công việc nghiên cứu di sản, dù sao cũng chỉ có thể có ở mức hạn chế. Chúng tôi cho rằng, đối với việc bảo vệ phần di sản bằng chữ Quốc ngữ của người Việt, bên cạnh phần đảm bảo của nhà nước (cho hệ thống thư viện, bảo tàng…), ngày nay nên thúc đẩy các phương thức mang tính cộng đồng: do cộng đồng thực hiện, nhằm những mục tiêu tương đối cụ thể của cộng đồng, đồng thời cũng là góp phần gìn giữ di sản chung.

Trên đây tôi mới chỉ nói về phần di sản bằng chữ Quốc ngữ đang đối mặt nguy cơ mất mát. Nhưng ta biết, cạnh đó còn có các di sản ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số cũng đang rất cần được khôi phục, giữ gìn, bảo vệ. Bởi vậy, theo tôi, cần đặt vấn đề về các di sản ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) của các dân tộc Việt Nam. Đây là phương diện còn bị coi nhẹ cả trong giới nghiên cứu lẫn trong giới quản lý văn hóa.

 (Nguồn daibieunhandan.vn)

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Các tin mới hơn