Tác phẩm và dư luận

12/1
10:46 PM 2019

NGƯỜI DUYÊN NỢ VỚI VĂN THƠ CỔ

PGS, TS VŨ NHO

Kể từ ngày được giải thưởng thơ của tạp chí Văn nghệ Quân đội hơn hai chục năm trước, đến nay nhà thơ, nhà nghiên cứu Vũ Bình Lục đã có đến 9 tập thơ riêng và hơn chục tập tiểu luận, tùy bút, bút kí, bình thơ... Ấy là chưa kể còn có 6 tập bản thảo gồm đủ các thể loại trên đây đang nằm trên bàn biên tập của các Nhà xuất bản uy tín. Cuối tháng 7-2018 vừa qua, bộ sách Giải mã kho báu văn chương gồm 5 tập đồ sộ của ông vừa được nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành.

Là một cựu chiến binh từng cầm súng trực tiếp chiến đấu ở chiến trường khu Năm trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhưng duyên nghiệp của Vũ Bình Lục lại gắn với nghề dạy học. Và kẻ từ ngày xuất ngũ sau năm 1975, ông giáo Vũ Bình Lục làm thơ, viết văn, viết bình giải các tác phẩm của tiền nhân có trong chương trình Ngữ văn THPT, rồi mở rộng ra các tác phẩm của các tác giả trong lịch sử thời Lý - Trần và nhiều danh nhân của dân tộc như Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát... Bởi vậy, là nhà thơ thời hiện đại, nhưng tên tuổi của Vũ Bình Lục gắn liền với việc bình giải các áng văn chương cổ chữ Hán và chữ Nôm.  

Nhà thơ, nhà nghiên cứu Vũ Bình Lục

Nghiên cứu các tác phẩm Hán – Nôm đòi hỏi  sự vượt khó ghê gớm, nhất là đối với người không chuyên về Hán – Nôm. Vượt qua giới hạn về trình độ chữ Hán vốn khiêm tốn, Vũ Bình Lục đã miệt mài, cẩn trọng đọc kĩ các tài liệu của người trước. Rồi so sánh, đối chiếu và dựa trên những dự cảm nhạy bén của mình để đưa ra cách hiểu hợp lí nhất đối với văn bản của người xưa. Phải có một niềm say mê lớn; phải có một ý thức cao; phải có sự kiên trì bền bỉ… và phải có “duyên” với văn học cổ mới có đủ bình tâm để theo đuổi công việc nghiên cứu, bình giải, những áng thơ cổ với những điển tích, điển cố; với cách viết bằng thứ chữ Hán, chữ Nôm càng ngày càng xa lạ với người đương thời.

       Trong sự nghiệp nghiên cứu, tinh tuyển và giới thiệu những giá trị của thơ Lý -Trần ở nước ta, Vũ Bình Lục có những đóng góp đáng được ghi nhận. Nếu so với các bài thơ thời Lý - Trần được tuyển trong “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X- thế kỉ XVII” Nhà xuất bản Văn hóa (Hà Nội, 1962) thì quả thật số bài thơ được tuyển trong sách của Vũ Bình Lục đã vượt khá xa. Trong đó, phần đóng góp quan trọng của Vũ Bình Lục chính là phần dịch thơ và bình giải. Về dịch thơ, tác giả đã nghiền ngẫm kĩ nguyên tác, thêm nữa, với vốn liếng khá dày của một người làm thơ chuyên nghiệp có thâm niên,  Vũ Bình Lục đã cung cấp nhiều bản dịch khá hay về thơ của tiền nhân. Có một số bài chưa có bản dịch thơ, thì bản dịch của Vũ Bình Lục lại càng quý. Những bài đã được tiền nhân dịch, Vũ Bình Lục cung cấp một cách cảm khác, nhất là cách diễn đạt khác, cho người đọc thấy vẻ lung linh của bài thơ nguyên tác. Thơ Lý-Trần nhiều bài có vị thiền, nhiều bài “kệ” ý tứ thâm sâu phải có kiến thức nhất định về đạo Phật mới có thể hiểu được. Rồi từ hiểu mà chuyển thành thơ để người khác cũng hiểu và rung động với người xưa. Việc ấy không phải ai muốn là có thể làm được. Có thể nói những bản dịch thơ của Vũ Bình Lục về cơ bản là thành công. Nhiều bài thơ chữ Hán, sau khi dịch nghĩa vẫn có cảm giác khó hiểu, nhưng Vũ Bình Lục đã chuyển sang bản dịch thơ một cách tinh tế, dễ hiểu và dễ cảm.

      Tuy nhiên, phần đóng góp  nhiều nhất theo  chúng tôi là phần bình giải các tác phẩm văn học cổ. Nếu ở các tập Giai phẩm và lời bình trước đây của Vũ Bình Lục, phần lời bình là phần quan trọng nhất; thì ở các bài bình thơ cổ, phần bình được viết thận trọng hơn, chắc chắn hơn. Với thơ cổ thì “giải (chú giải, giải thích) là một phần rất quan trọng. Chú giải đúng, giải thích đúng điển cố, từ ngữ, hình ảnh là đã góp phần quan trọng vào việc cảm và hiểu, thưởng thức bài thơ. Việc giải đúng sẽ làm cho lời bình chính xác, thỏa đáng chứ không rơi vào bình tán chủ quan. Chẳng hạn: Bàn lại với các cụ Đào Phương Bình và Nam Trân việc dịch thơ thành máu giặc hay máu người, Vũ Bình Lục viết : “Trộm nghĩ, cụ Đào và Nam Trân, có lẽ chưa chuyển tải được đầy đủ tình ý của tác giả ở hai câu kết này. Trần Minh Tông viết “tưởng rằng máu người chết trận vẫn chưa khô”, nghĩa là máu giặc xâm lăng như còn đỏ ngầu trên dòng sông Bạch Đằng, nhưng có cả máu của những anh hùng hữu danh và vô danh con dân nước Đại Việt ta nữa chứ! Máu ta, máu giặc cùng hòa vào dòng sông, đều cùng là máu người cả, bởi “máu người không phải nước lã”. Những chiến binh phía Nguyên Mông, chỉ là những nông dân vô tội, bị ép buộc phải cầm vũ khí, phải chết một cách vô nghĩa vì quyền lợi và tham vọng bẩn thỉu của bọn cầm quyền ngạo mạn, sao chẳng đáng thương? Nên chi vua Trần Minh Tông mới viết là “máu người chết trận” (thác nghi chiến huyết), chứ không chỉ là “máu giặc”, đủ thấy một tấm lòng thương người không biên giới, một minh triết nhân văn sâu rộng đến nhường nào!” (trang 218 tập Hồn Thiền trong thơ Lý- Trần).

Bộ sách 5 quyển “Giải mã kho báu văn chương” của Vũ Bình Lục vừa xuất bản.

      Hoặc như nhân bàn về sai lầm của vua Trần Minh Tông và sự ân hận của nhà vua, Vũ Bình Lục biện giải: “Bậc thánh nhân chưa hẳn là đã toàn bích. Đến như Lê Lợi là vị vua anh hùng, nhưng ông ấy cũng phạm những sai lầm nghiêm trọng, quá tin bọn xu thời hiểm độc, nên đã giết hại một số trung thần khai quốc. Lại đến như vua Lê Thánh Tông, một vị vua sáng, anh hùng, có công lớn với đất nước, cũng là người minh oan cho Nguyễn Trãi sau này. Minh oan cho Nguyễn Trãi là sáng suốt rồi, nhưng không dám minh oan cho bà Nguyễn Thị Lộ, thì đó lại là một sự thiếu trung thực. Cuối đời, Lê Thánh Tông cũng mắc sai lầm nghiêm trọng, nghe sàm tấu mà giết hại mấy trung thần. Chả thấy các vị vua ấy có lời hối hận nào được ghi vào sử sách hay văn chương cả (sách đã dẫn trang 220).

       Với kiến văn, quan điểm và thái độ như trên, Vũ Bình Lục đã tranh luận nhẹ nhàng với các tác giả sách “Thơ văn Lý - Trần, tập III: “Nếu dịch Oanh hoa là mùa xuân, không sai, nhưng mà lại không ăn nhập với câu cuối. Chả lẽ Mùa  xuân lại làm rối nắng mai, tức nắng xuân hay sao? Chúng tôi dịch ra thơ: Oanh hoa hưng phế chẳng màng/ Vô tư đùa giỡn với chàng nắng mai là có thể chuyển tải đúng tinh thần nguyên tác chăng? ( sách đã dẫn trang 321).

 Tất nhiên, như đã nói, viết về thơ chữ Hán, chữ Nôm của tiền nhân, ngay đến các bậc túc nho cũng còn có khi có lỗi, huống hồ một người chỉ được đào tạo để dạy Ngữ văn bậc Trung học, chỉ tự học, tự đào tạo mà trưởng thành. Chắc chắn trong hàng ngàn trang bình giải thơ cổ, tác giả Vũ Bình Lục khó tránh khỏi có sơ suất, khiếm khuyết.  Nhưng bỏ công sức, thời gian và cả tiền bạc nữa để tìm hiểu thơ của tiền nhân và viết  những cuốn sách độc đáo như thế, quả là một việc đáng ghi nhận và biểu dương, khích lệ.

 

 

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *