Tác phẩm chọn lọc

14/5
3:47 PM 2016

Kể chuyện rong về những ngày có giặc-Trường ca của Đỗ Trung Lai

Người lính già đầu bạc/ Kể mãi chuyện Nguyên Phong. Trần Nhân Tông Kính trọng quá khứ là dấu hiệu phân biệt văn minh với dã man. A. Puskin

                                                                                  Trận chiến Bạch Đằng chống quân Nguyên Mông (ảnh: Internet)

 (Trích Trường ca)

 

CHƯƠNG HAI

KỂ CHUYỆN

 

           I

Sử chép thế

nước Việt này là thế

giặc mọc như lông mọc

suốt bao đời!

Để gìn giữ

cảnh êm đềm Lạc Việt

Cổ Loa thành

người Việt phải xây thôi!

 

Với Thành Ốc

với nỏ thần Cao Lỗ

An Dương Vương kế nghiệp các vua Hùng

ngỡ bền vững muôn đời trời Âu Lạc

thì một ngày

lông ngỗng trắng rưng rưng!

 

Lông ngỗng trắng

áo tình buông dấu trắng

“giặc trong nhà” lần theo dấu tin yêu

cha ngoái lại

“mất thành, con phải chết!”

gươm oan khiên

đau đớn dội trăm chiều!

 

Biển nhận máu Mỵ Châu về luyện ngọc

ngọc từng viên vò hận

cổ kim ơi!

Sống cạnh “Thiên triều”

không thể ngây thơ được

thần Kim Quy

vuốt ngực trước con người!

 

Rồi cổ tích

đưa ngọc châu về núi

kẻ hai lòng

cổ tích cũng bao dung

lấy tên kẻ chung tình

đặt tên cho giếng Ngọc(5)

giữa tang thương

chợt nở một bông hồng!

 

Rồi cổ tích

gội sầu trong giếng Ngọc

tặng tình yêu một ánh hồi quang

tặng một tiếng cười trong nước mắt

yêu tình yêu

bằng cả tấm lòng vàng

xin hỏi cả phương Tây, phương Bắc

cổ tích nào

hơn cổ tích phương Nam?

                 II

Rồi một ngày

Binh Hán vượt Trường Giang

Giao Chỉ

Cửu Chân

lại khắp trời lửa khói!

 

Thương nhà cũ

con gia gia khắc khoải

cuốc đêm hè

gọi mãi núi sông xưa

 

Núi sông xưa

yêu biết mấy cho vừa

“Chim Việt đậu cành Nam

Ngựa Hồ gầm gió Bắc”

đau chất ngất

chí phục thù chất ngất

rừng Nam này

bao đợt gió rung cây

cung đã giương

bao tháng bao ngày

chỉ đợi lúc

nheo mày buông tên hận.

 

Tướng Ông bỏ mình

thì Hai Bà lâm trận

sáu mươi lăm thành

sầm sập trống đồng rung

thù nước tạm xong

vừa mới đoạn tang Ông

Hai Bà đã gieo mình sông Hát lạnh!(6)

 

Cột Mã Viện

cắm vào lòng dân Việt

“Đồng trụ chiết”

thì “Giao Chỉ triệt”(7)

gió cuốn lưng trời

lau lách khóc ven sông!

 

Đất rêu phong

lòng Việt chẳng rêu phong

nhà người Việt

quay lưng về hướng Bắc

nhà ta đón gió nồm

không ai đơm gió bấc

học chữ Hán

cũng đọc theo lối Việt

ta đọc nghìn năm:

“Nam quốc sơn hà”!

              III

Hán đổ rồi

thì lại gặp Đông Ngô

Những mẹ Việt

rửa bành voi Bà Triệu

Bà đi guốc ngà

mặc giáp đồng xung trận

đạp sóng dữ biển Đông

đi chém cá kình.(8)

 

Tên réo đầu voi

lửa cháy mặt thành

Tùng Sơn đau

trông nữ chúa bỏ mình(9)

hăm ba tuổi

Bà về nơi nghìn tuổi!

Sông Mã

Sông Chu

xanh vời vợi

không bao giờ

làm tỳ thiếp cho ai.

             IV

Người thức một đêm

sử bước vạn ngày

Tam Quốc hết

Tấn tàn trời phương Bắc

Giao Châu lọt vào tay Lương tặc(10)

dân Việt trôi

trong thống khổ ê chề!

 

Bao năm ròng

nhục mất nước còn kia

Lý Giám quân

từ quan

xưng đế

Khai Quốc tự

soi mình Dâm Đàm thủy

lầu Vạn Xuân

như giấc mộng đêm hè!(11)

 

Vua mất rồi

tướng trẻ có nề chi

Triệu Quang Phục

đưa quân về Dạ Trạch

quân với tướng

xây thành trong lau lách

từ đầm lầy

“giằng lại tấm giang sơn”(12)

hăm ba năm

dân gọi “Dạ Trạch Vương”

Lý Phật Tử thay lòng

trời thôi phù nghiệp Triệu!(13)

                 V

Ở phương Bắc

Tùy lên cầm đế hiệu

Nam - Bắc triều

 

chìm với “Hậu đình hoa”(14)

Vạn Xuân non

khô héo dưới trăng già

quốc vừa phục

lại chia về ba quận!(15)

             VI

Lại phương Bắc

(lại là vì phương Bắc!)

ba quận hóa An Nam

ba quận đọc thơ Đường.(16)

 

Chia để trị

Việt thành bao châu huyện

An Nam như chiếc bánh của Đường triều

Mai Hắc Đế(17)

Đại Vương Bố Cái(18)

phải dựng cờ

đòi lại nước non yêu.

 

Người Việt thuộc thơ Đường dư vạn khổ

luật Đường thi

thành thi luật Việt rồi

những mùa thu trong thơ Đường đẹp thế

người Việt buồn

nhớ nước dưới thu rơi!

            VII

Nam Hán thay Đường

sầm sầm sang đất Việt

thì “Đằng giang tự cổ huyết do hồng”(19)

đến cọc gỗ

cũng hóa thành dân Việt

theo Ngô Quyền

phá giặc trên sông.(20)

          VIII

Nam Hán chạy rồi

sông tưởng được xanh trong

thì phương Bắc

lại viết thêm “liệt truyện”

thay Nam Hán

Tống triều đưa sứ đến

Đinh Đế ngắm hoa lau

ngậm ngải cống “Thiên triều”

nhận cống nạp

Tống triều còn chưa thỏa

thèm nước này

hơn chim chả, nhung hươu!(21)

 

Được một giáp

Tiên Hoàng tạ thế

đang thọ tang

mà Tống quyết xông vào

theo Kinh Lễ

còn gì đau hơn nhỉ?

Dương Vân Nga

vì nước dâng bào.

 

Nước còn trẻ

sơn hà nguy biến

Lê Đại Hành

mặc giáp

ngự ngôi cao!

 

Nước còn trẻ

nhưng cầu hòa không được

Lê Đại Hành

làm lại Bạch Đằng giang

Hầu Nhân Bảo

vào đây mà chết trận

thêm một lần

giặc đến rồi tan.(22)

         IX

Tống phục hận

sai Quách Quỳ, Triệu Tiết

mang đại binh

hòng cướp nước Nam về

Lý Thường Kiệt

đọc thơ thần dưới nguyệt

“Nam quốc sơn hà”

làm theo kiểu Đường thi!(23)

                 X

Rồi Tống đổ

người Trung Hoa mất nước!

ngựa Nguyên Mông

tung vó vượt biên thùy

“Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy”

“Thiên thượng lai” cuốn mọi quốc gia đi!(24)

 

Nước Việt nhỏ

nhưng cùng nhau trụ được

giặc Nguyên Mông

bảy đến, ba về

Trần Hưng Đạo

được đất này phong thánh

bao đền thờ dân dựng vẫn còn kia.(25)

 

“Ba bận chuyển nhà

bằng một lần nhà cháy”

Trần triều xưa

ba bận cháy nhà!(26)

chồn ngựa đá

chân người không mỏi

dẫu bao lần

nước mắt chảy sau hoa!

 

Dâng công chúa An Tư vào trại Thát(27)

như Chiêu Quân nhà Hán cống sang Hồ(28)

từ đất giặc

không ai quay về nữa

biết ai người

còn nhớ bóng ai xưa?

 

Khi giết giặc

“mắt người Nam không chớp”(29)

“khắp toàn thân là đảm”(30)

giữa trận tiền

lúc ngộ Phật

“như cám nằm đáy cối”(31)

gặp thu lành

nâng chén

đợi trăng lên.

 

Vua ra trận

rồi vua thành Phật

về Trúc Lâm

nghe chim hót bên chùa(32)

say Thiền học

dẫu làm nên chính sử

chỉ mơ sao

gươm giáo hóa cày bừa.

                XI

Mơ là thế

nhưng đời đâu được thế

Minh thay Nguyên

lửa lại cháy ngang trời

lại phải nấu cày bừa làm gươm giáo

đem mâm đồng, chuông khánh

đúc thần lôi!

 

Lại ròng rã

mười năm trời kháng chiến

bao nhiêu là

vợ góa với con côi

Linh Sơn kia, lương cạn mấy tuần rồi

Khôi Huyện nọ, quân không còn một đội!(33)

 

Thái Tổ nhà Lê

húy danh là Lợi

nếm mật nằm gai

đâu chỉ có hai năm(34)

thịt ngựa chiến cầm hơi

giết voi trận nuôi quân

khi thắng giặc

trả gươm về cõi khác.

 

Tặng trăm thuyền

cho hàng binh hồi quốc

cấp ngựa đưa hai vạn lục quân về(35)

tình hòa hiếu

ngày đêm trau chuốt

những chuyện này

sử Bắc vẫn còn ghi.

 

Đêm ngẩng đầu

gặp vằng vặc sao Khuê

mùa vải chín

tìm “Ức Trai thi tập”(36)

ngẫm lẽ sống - còn, khuyết - tròn, được - mất

vân cẩu đầy trời

bể dâu ngập đất

khóc với cười

chỉ trang trước trang sau!

 

Người lính già

nghe vọng giữa canh thâu

quyên nhỏ máu

vẫn còn kêu “quốc! quốc!”

đã vì nước

đắng nào không nuốt được?

hồn theo mây

rằm Tháng Bảy

trông về!

      XII

Dâu bể kìa

Mãn đến, Minh đi

tóc bện bím

sau đầu đàn ông Hán!

nhân chợ chiều

Chiêu Thống vời giặc đến

đặt “kẻ hèn nhất nước”(37)

trở về ngôi!

 

Hoàng đế Quang Trung

đành phụng mệnh trời

gác gia sự

xuất sư nhằm hướng Bắc

“đánh một trận sạch không kình ngạc”(38)

hoa đào bay

phấp phới chiến bào bay!(39)

 

Rồi ngờ đâu

lại có một ngày

“Ai tư vãn”

Ngọc Hân trào lệ ngọc!(40)

bút với mực

mà sao đầy nước mắt?

khúc biệt hành

thay khúc khải hoàn ca!

 

Đào dẫu tàn

tình lớn chẳng phôi pha

khóc một chữ

người nghe vò chín khúc

đâu phải chuyện

Tôn phu nhân quy Thục(41)

khóc anh hùng

cảm động cả trời mây!

 

       XIII

Thanh chạy rồi

thì lại đến giặc Tây

sau thập ác

là tàu đồng súng thép

mỗi hòa ước

là một lần cắt đất

cắt đất dâng người

xương thịt cũng chia phôi!(42)

 

Hàm Nghi nhục

bỏ thành đi chống giặc

giặc bắt vua

đóng cũi lưu đày

những ai dám Cần Vương phục quốc

bị bêu đầu cắt cổ chẳng ghê tay!(43)

 

Đem một  nước

chia ba kỳ như bỡn

ngai bù nhìn

hỏi nước có còn không?

Trương Công Định

Nguyễn Tri Phương

Hoàng Diệu

nhập thiên thu

Vàm Cỏ gọi sông Hồng.

 

Nguyễn Quang Bích

Phan Đình Phùng

Hoàng Hoa Thám

đem thân mình

báo quốc chốn binh nhung!

          XIV

Áo nhuộm máu

áo hóa thành cờ đỏ

mơ tự do

tự do hóa sao vàng

thu đại nghĩa

thu sao vàng cờ đỏ

ngắm Cha già

cả dân tộc hân hoan.

 

Cả dân tộc

theo Cha già kháng chiến

nào dao phay

gươm Nhật

gậy tầm vông

nào hỏa mai

súng kíp

mút - cơ - tông

áo trấn thủ

bên nâu sồng cuối huyện.

 

Trung - Nam - Bắc

chỉ một lời quyết chiến

súng gươm nghèo

nhưng giàu có huân công

học đi đều

sau khi biết xung phong!

 

Chỉ biết theo Cha

không cần biết “tang bồng”

trăng phục kích

treo thầm trên ngọn súng

chấp tất cả

cơm thưa và chăn mỏng

chân không giày

úp thìa ngủ đêm đông.

 

Đôi kẻ hào hoa

làm thơ nhớ Thăng Long

“Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm”(44)

đêm Tây Tiến

trời hoang đầy lau xám

sông Mã độc hành

cọp vàng quanh bản

hồn Sầm Nưa

thân còn ở Mai Châu

thì “áo bào thay chiếu” có sao đâu

rót thi vị

lên những mồ viễn xứ

thời chinh chiến

hồn ai không bỏ ngỏ

cho “mùa em”

 

thơm ngát giữa “đêm hơi”(45)

thà vô danh

thân vùi vội chân đồi

hơn an lạc

khi sơn hà nguy biến.

 

Cả dân tộc

theo Cha già kháng chiến

chín năm ròng

mới đến được Điện Biên

hè năm ấy

có một rừng cờ trắng

run rẩy hàng

khi cờ đỏ bay lên.

        XV

Nước hai nửa

chưa  kịp về một mối

đền chửa xây xong

đã gặp kẻ đốt đền

nhà muôn nóc “đêm Nam ngày Bắc”

vốn “đồng bào”

mà “hai phía”, “hai bên”!

 

Hai chính thể

cờ không cùng một sắc

đài hai miền

tiếng Việt ngược chiều nhau

cha mẹ

anh em

thành người hai chiến tuyến

mấy chục năm ròng

càng nghĩ lại càng đau!

 

Vừa rừng sâu

giờ lại rừng sâu

vừa kháng chiến

lại lên đường kháng chiến

nối mạch giao liên

trên rừng dưới biển

“địa chỉ đỏ” còn kia

“Việt cộng” lại quay về.

 

Và núi rừng

thành thị

làng quê

âm thầm dệt

thiên la địa võng

“Còn một cái lai quần cũng đánh”(46)

ôi Miền Nam

đi trước về sau!

 

Người Nam ta

đội trời Việt trên đầu

dù sông tuyến

muôn lòng không giới tuyến

Cửu Long gọi

có Hồng Hà lên tiếng

người ra đi

phù sa cũng theo đi.

 

Một lần nữa xa quê

không thể hẹn ngày về

một lần nữa

ca bài ca vệ quốc

rồi hát tiếp

giữa Trường Sơn trùng điệp

về chim Chơ Rao

bay trên nóc buôn làng(47)

về chú ve kim(48)

về chú nai vàng(49)

về tiếng mìn công binh đánh đá(50)

về tiếng điếu cày rít lên thong thả(51)

về cô em Thạch Nhọn - Thạch Kim(52)

về những mùa vận tải triền miên

về những tấm màn đen

che bào thai chiến dịch(53)

về tám mươi mốt ngày đêm

trong Cổ Thành cổ tích

về “Điện Biên Phủ trên không”

tên lửa tựa rồng bay...

 

Đã hát chín năm

lại hát tám ngàn ngày

hát

hát mãi

đến khi trào nước mắt

khi nhìn thấy

ước mơ thành sự thật

ngày Tây Nguyên

tràn tới Sài Gòn

cờ đỏ - xanh

chập cờ đỏ sao vàng

cuồn cuộn vẫy

ngày hân hoan vĩ đại!

        XVI

Bên chiến bại

hiển nhiên là ... thất bại!

Người chiến thắng hồi hương

thu xếp lại đời mình.

 

Đời thế tục

không thể nào hát mãi

lạc hậu

nghèo nàn

thời đánh nhau để lại

mỗi đêm về

gặm nhấm những ngày vui!

 

Những nghĩa trang

dài đến tận... chân trời!

 

Mâm quả phụ

“ngồi bên nào cũng lệch”!(54)

 

Tổ lúa nước

mà ngồi nhai... lúa mạch!

 

Nữ thanh niên xung phong

về quê cũ... lên chùa!

 

Lúc trẻ vào rừng

cài tóc bẻ sim mua

tóc rụng hết

trước cả ngày xuống tóc

không có được

cả niềm vui... buồn nhất

cái niềm vui

được một bận thất tình!

(Tình ca bây giờ

toàn trai đẹp gái xinh

lỡ một tách cà phê

hát như là động đất!

Ai sẽ hát

về những người hóa Phật

từ Trường Sơn

về làm vãi trên chùa?)

 

Thắng giặc rồi

không lẽ tự thua?

Thu xếp mãi

thế rồi thu xếp được

“dân nước” ở đâu

cũng vẫn là “dân nước”

đau thương nhiều

người Việt vực nhau lên

triệu người chết

triệu người mang thương tật

chiến công nhiều

hạnh phúc chẳng nhiều thêm!

 

Hạnh phúc nào

những thân tàn ma dại

đi-ô-xin

âm ỉ giữa thai người

bao dị dạng

dưới trời Nam tàn úa

một nhà đau

đau khắp cả giống nòi!

      XVII

Thế mà lúc

việc còn đang dở việc

thì có người

rình cướp mất Hoàng Sa

khắp cổ tích

chỉ Lý Thông làm thế

sớm qua chiều

tình nghĩa đã phôi pha!

       XVIII

Xong việc lớn

việc đang bề bộn việc

lính phục viên

chưa thuần lại việc đồng

thì nhận giấy

báo ngày tái ngũ

bỏ cha già mẹ héo ở mom sông!

 

Họ phải tới

miền Tây Nam tổ quốc

ở nơi đây

Khơ Me Đỏ công thành

vừa chống Mỹ

cùng nhau ngày trước

giờ quay đầu

xả súng liên thanh!

 

Khơ Me Đỏ

đánh úp hai dân tộc

Cam Pu Chia

máu chảy khắp ao đìa

tự diệt chủng

dân chỉ còn non nửa

cũng chết dần

trong bóng áo đen kia!

 

Thời thế thế

quân Việt đành phải thế

đi cứu mình

đi cứu đất Ăng Co

anh nuốt vội

liều ký ninh còn lại

rồi cùng em

sang xứ sông hồ!

 

Rồi một sớm

người Bắc tràn ải Bắc

nước Nam ta

thọ địch cả hai đầu

Vọng Phu thạch

thêm một lần hóa đá

lòng trời sâu

đâu sánh dạ người sâu!

 

Đánh nhau mãi

cuối cùng, thu xếp được

quân hai bên

về doanh trại hai nhà

tưởng đã gác binh đao

ngồi nói chuyện

chợt một ngày

thảm sát ở Gạc Ma!

 

Những chiến sĩ công binh

còn rất trẻ

đang kê cao Tổ quốc

giữa trùng xa

đạn bắn thẳng

và lưỡi lê đâm thẳng

sáu mươi tư người

sóng đập máu son pha!

 

Sáu mươi tư anh hùng

vùi thân trong lòng biển

sáu mươi tư lá bùa

phù hộ non sông

hồn họ kết

nên thành hô vách ứng

suốt đêm ngày

canh gác Biển Đông.

 

Người lấy đảo

lại đang đòi lấy biển

những ngư đoàn

có tàu chiến bơi theo

áo cộng sản

lại thêu rồng phong kiến

trông hành tung

nào khác những tiên triều!

 

Ôi Việt Nam!

núi gấm sông thêu

muốn được ngâm thơ

phải làu làu binh pháp!

Ba trang sử

thì hai trang trận mạc!

Mẹ phải hóa anh hùng

khi đầu bạc răng long!

Treo ảnh con

ảnh cháu

ảnh chồng

dưới cờ đỏ

trên “Bàn thờ tổ quốc”!

 

Ơi hạnh phúc!

đầy lên nào, hạnh phúc!

Đừng ở cõi Niết bàn

hãy rơi về cõi tục!

Cho lá xanh không rụng trước lá vàng

cho lá xanh được phụng dưỡng lá vàng

cho mẹ ta không phải hóa anh hùng

được giản dị

ngày ngày

làm mẹ!

 

Vâng, giản dị

chỉ cầu xin giản dị:

Lệ máu không còn

chảy dưới trời Nam!

   Trích trường ca của Đỗ Trung Lai

                       

 (Nguồn: Tạp chí Nhà văn&Tác phẩm)

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *