Tác phẩm chọn lọc

16/6
8:12 AM 2018

CÕI THƠ NHƯ MỘT BẢO TÀNG KÝ ỨC

ĐỖ MINH TUẤN.(Đọc “Trăng và thơ đọc chậm” - NXN Hội nhà văn, 2012).Phối kết một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn dòng suy tưởng nhân văn truyền thống với tâm thế thiền trong một thi pháp mới mang tinh thần hậu hiện đại dưới lớp vỏ cổ điển, tập thơ mới của Nguyễn Việt Chiến đã tạo ra được những hô ứng âm vang trùng điệp và tinh tế,

Tập thơ pha trộn đan xen nỗi niềm hoài cổ và nỗi khắc khoải ở mức thượng thừa, với cái nhìn tích cực biết nhìn ra cái đẹp và khát vọng văn hoá ẩn sâu trong cái thực tại mù loà, rách nát, bi thương. 

ÁM ẢNH NƯỚC VÀ KHÁT VỌNG “THOÁT NƯỚC”

Nguyễn Việt Chiến luôn sống trong tâm thế của người trí thức đi tìm chữ, nuôi nấng chữ, vớt chữ từ trong nước. “Mỗi ngày trước mắt anh là những trang sách mở ra”. Nhưng chữ không nằm sẵn trong trang sách ấy, mà bị vùi lấp trong mưa, lay lắt trong bóng đêm và lặn sâu trong đáy nước của những dòng sông cuồn cuộn mà những đại thi hào như Nguyễn Du cũng phải âm thầm kiên nhẫn ngồi câu từng chữ để có một Truyện Kiều. Thế giới thơ Nguyễn Việt Chiến luôn dập dềnh chìm nổi trong nước mưa, nước biển, nước sông, nước hồ và nước mắt. Nước luôn luôn là hình tượng nghệ thuật trung tâm để Nguyễn Việt Chiến gửi gắm những cảm xúc và thông điệp sâu sắc nhất về lịch sử và thế sự.

 

Trong “Trăng và thơ đọc chậm”, ớc hiện ra như là bản mệnh thi ca của Chiến cộng thông với bản mệnh của bao nhiêu kiếp người đau khổ trầm luân trên quê hương Việt Nam bất hạnh ngàn đời. Và trong thế giới thi ca đầy nước ấy, có “một người bị ướt thức trong ta”. “Người bị ướt” đó chính là cái Tôi trữ tình của Nguyễn Việt Chiến  luôn thao thức trong tâm hồn nhà thơ để cùng hững chịu, sẻ chia với một thế gian đầy nước mưa, nước mắt:

 

Tiếng mưa đêm lăn vào giấc ng

Có một người bị ướt

                         thức trong ta

không có lẽ nước mắt nhiều đến thế

 

ta còn nguyên một đêm mưa về nhau chưa kịp đọc

ớc mắt dễ bị v

những mảnh vỡ làm hỏng

                    một người bị ướt thức trong ta

                            (Có một người bị ướt thức trong ta)

“Nước mắt không bao giờ ngừng chảy”, nó chảy ngược chảy xuôi như con thoi đan dệt những phận người đau khổ. Nước mắt vừa là không gian, vừa là nguyên liệu, vừa là những viên gạch xây nên ngôi đền nuôi giữ niềm tin và hy vọng:

bóng mẹ in trên vách thời gian

như pho tượng tạc bằng nước mắt

 

Mẹ bảo nước mắt ban ngày chảy xuôi

                       đánh thức những ngôi đền

còn ban đêm nước mắt chảy ngược vào trong

thấm đến một đức tin cứu rỗi

…..

rồi mẹ bảo: có ngôi đền chỉ làm bằng nước mắt

 

                                   (Chiều xuống rồi, về nhà đi con)

 

 

Sông văn.Chảy.Dọc cuộc đời

Nguyễn ngồi câu chữ. Dưới trời mưa đêm

Có cô gái trẻ làng bên

Ra sông. Giặt lụa. Vào đêm Nguyễn v

 

Thế rồi. Đêm ấy. Bờ đê

Mưa. Thì đã tạnh. Trăng. Thề đã rơi

Hình như họ. Đã thành đôi

Sông thơ.Chảy. Suốt một trời. Nguyễn Du

 

                                                  (Gặp Nguyễn Du trên sông đêm)

 

Hồ Gươm với màu xanh ký ức ngàn năm vẫn được các thi nhân xưa nay ca ngợi và tin cậy. Nhưng trong ám ảnh nước đầu ưu tư  của Chiến, nước Hồ Gươm vẫn là nỗi âu lo cho sức sống của biểu tượng Rùa thiêng. Nước Hồ Gươm trong ký ức lịch sử là chốn thanh tao, là không gian thiền bình yên nơi cụ Rùa ngủ yên trong huyền thoại:

 

mặt hồ chiều

như một đoá sen xanh

cụ đang ngồi thiền trên sóng

đoá hoa chiều không toả hương

 

sốt mấy trăm năm

            Tháp Rùa lạnh

cụ rùa đang ng

                 (Vẫn phải ngoi lên thở)

 

Nhưng nước Hồ Gươm hôm nay không còn giữ được cái thanh bình, tĩnh lặng, thanh khiết của huyền tích, mà đã bị khuấy đục trong những toan tính ô trọc  và thực dụng của con người thời đại, khiến cụ Rùa bừng tỉnh giấc ngủ ngàn năm, “phải ngoi lên thở/ trên mặt báo hàng ngày”. Và ngay cả khi hy vọng nước hồ Gươm sẽ trong trở lại, nhà thơ vẫn thấy cụ Rùa phải ngoi lên:

ớc có thể sẽ trong hơn

và huyền thoại về Hồ Gươm có thể sẽ thơ mộng hơn

Nhưng đâu phải chỉ có thế

Bởi cụ Rùa vẫn phải ngoi lên th

 

Nghĩa là, cái sức sống văn hoá tâm linh của nước hồ Hoàn Kiếm không phải nằm trong vẻ thanh bình của nước hay trong cái thi vị  của câu chuyện Vua Lê trả gươm, mà nằm trong trong thế thái nhân tình và tâm tưởng của con người thời đại. Nước trở thành nền móng, chất liệu và bệ phóng cho tứ thơ và suy tưởng thi ca.

 

Bài thơ Thương nhớ sâm cầm là một đám tang thi ca bên Hồ Tây buổi chiều vắng sóng và không nắng, với tiếng sáo buồn của anh xẩm mù  như đưa tiễn những cánh chim sâm cầm thi vị gắn liền với Hồ Tây từ hang trăm năm  trước đã chết trong cả trong đời thực và trong ký ức của con người hôm nay. Câu thơ lục bát ngắt vụn ra một cách táo bạo bằng những dấu chấm liên tục, bất thường, gây cảm giác nấc nghẹn trước sự  mất mát văn hoá, mất mát ký ức  lịch sử, mất mát một cõi thơ hằng có trong tâm cảm ngàn xưa. Và, dường như nhà thơ cảm thấy tiếng chim xưa vẳng lại trong điệu sáo của người mù làm chúng ta như được khai sáng:

 

Đã mấy chục năm qua

Ông vẫn gọi mãi

                 bầy chim sâm cầm

Bằng tiếng sáo hoang sơ

 

Tiếng sáo trúc

       Khiến ta

Thấy Tây Hồ chập chờn

Vỗ cánh bay về phía ngàn xưa

Thương nh

                 Sâm cầm

 

Điệu sáo của người mù

Khiến mắt chúng ta trong lại

Trong như một tiếng chuông

                   ( Thương nhớ sâm cầm)

 

Nhà thơ đến bên hồ để tìm cánh chim xưa, nhưng lại thấy tiếng chim đã tắt còn vương trong tiếng sáo của người mù! Và người mù, bằng những tiếng sáo gọi chim đã có con mắt  biệt nhãn bên trong nhìn sâu thẳm vào ký ức văn hoá cộng đồng, như gióng tiếng chuông chùa khai sáng văn hoá tâm linh cho những người sáng mắt. Chỉ mấy câu thơ ngắn mà Nguyễn Việt Chiến đã đi xuyên ba cõi: Cõi văn hoá tâm linh với ký ức sâm cầm, cõi khổ đau trần thế với tiếng sáo người mù mang khát vọng văn hoá âm thầm bền bỉ và cõi tâm linh khai sáng cái nhìn với tiếng chuông trong vắt.

Không chỉ nước mắt, nước mưa, nước biển, nước hồ, luôn ám ảnh quậy lộn và biến đổi trong thơ Nguyễn Việt Chiến, mà nước sông giờ đây cũng trôi đi không giống ngày xưa. Nó vừa ngủ vừa đi trong những không gian rách nát, phai tàn, lập loè ma quái:

              Sớm nay. Lác đác. Sen đồng

Một bài bông. Nở bên sông. Lập loè

              Con sông. Vừa ngủ. Vừa đi

Áp phù sa bạc. Mấy khi được lành

              Em về. Vá áo sông anh

Về. Mau kẻo sóng. Nhuộm. Thành sông mê

                                           ( Mây tơ tằm)

Nước hồ nước sông nước biển trong thơ Chiến đều hoà trộn nước mưa và nước mắt và luôn trĩu nặng nỗi buồn mất mát: Mất ký ức, mất hình hài, mất im lặng, mất văn hoá, mất thơ, mất cõi thiêng, mất cái nguyên vẹn trong trẻo ngàn năm và mất cả những giá trị tâm linh đích thực.

 

Nhưng Rùa thiêng Hồ Gươm, sâm cầm thơ mộng Hồ Tây và những ký ức lịch sử văn hoá gắn bó với những dòng sông có thể bị chôn vùi trong nước, song vẫn sẽ sống mãi trong tâm tưởng con người, nơi ấp ủ muôn đời những tiếng sáo gọi chim và cũng là nơi mãi mãi cụ Rùa thiêng nương náu. Những liên tưởng hết sức tự nhiên mà táo bạo của Nguyễn Việt Chiến trong hang loạt bài thơ có hình tượng nước đã bộc lộ một khát vọng sâu thẳm của nhà thơ muốn “thoát nước”, thoát những hình tướng quen thuộc như nước mưa trong đêm cô đơn, nước hồ Gươm nhạt nhoà huyền tích, hay nước hồ Tây vắng bóng sâm cầm… để tìm kiếm ký ức trong tâm tưởng con người, thứ tâm tưởng không lệ thuộc vào hình tướng, như anh xẩm mù kia không thể nhìn thấy nước, nhưng tiếng sáo gọi chim cất lên từ tâm tưởng của anh, niềm thuỷ chung văn hoá của anh đã cất giữ cả tiếng chim và hồ nước ngàn năm. Những tâm tưởng cưu mang ký ức và văn hoá đó lại cộng sinh và kết nỗi với những chuỗi hình tượng và lien tưởng khác nhau, tạo nên hai cõi riêng trong thế giới nghệ thuật của tập thơ. Đó là Cõi thơ và Cõi trăng - hai cõi  đan xen nhau, cùng vương vấn cõi đời và ẩn hiện trong cõi mộng, nhưng mỗi cõi lại lung linh những ánh sáng nhân văn và thẩm mỹ khác nhau, tạo nên những cảnh giới thi ca riêng biệt, không thể lẫn vào nhau.

 

CÕI THƠ NHƯ MỘT BẢO TÀNG KÝ ỨC

Trong ý thức của Nguyễn Việt Chiến, thơ ca là nơi cất giữ những ký ức về cõi đời tục luỵ, gánh sứ mệnh bảo toàn quá khứ, không để mất đi một  ký ức, một ấn tượng, một biểu tượng nào của cõi nhân văn, của tình thương trần thế:

Thưa m

hôm nay bàn chuyện thơ đi về đâu

trong con vẫn còn một chuyến tàu

ba mươi năm trước chưa trở v

 

phải chăng vì thế

những câu thơ bây gi

vẫn phải lên đường

                làm một cuộc ra đi

Thơ ca là bảo tàng ký ức, luôn chất nặng những ký ức của cõi đời đau khổ, nơi nhà thơ cất giấu trong câu thơ chật hẹp của mình những may chiều, nắng hạn, gió đông, tri thức thuở xưa và hơi ấm của những câu hát cũ

 

Bởi thế

Tôi chỉ dám cất giấu trong câu thơ chật hẹp của mình

một ít gió còm cõi từ mùa hạ cũ

một ít nắng đăm chiêu từ mùa đông cũ

 

một ít mây chiều bơ vơ trên mái phố cũ

một chút bụi tưởng rơi ra từ cuốn sách cũ

( Để nhớ về em, trang 25, 26).

 

Nhưng ngay cả khi đã làm tròn sứ mệnh với ký ức, thơ vẫn chưa đáp ứng được khát vọng nhân văn của nhà thơ với cõi đời đau khổ.

Không có l

           Mẹ chỉ là ký ức

một  tượng đài trầm mặc ở trong thơ

Ký ức vẫn níu kéo mẹ vào quá khứ, vào những mất mát chiến tranh thuở trước. Cõi thơ luôn lôi con người về quá khứ để “gặm nhấm trái tim yêu đuối của anh bằng những chiếc răng thú”, “những vết răng ngủ quên trong lớp muối sâu của dĩ vãng” (Muối). Tội lỗi lớn nhất của thơ là sự lãng quên.

 

khi làm xiếc

             trên sợi dây ngôn ng

chúng tôi bắt chước thiên nhiên

gieo một tiếng thở dài

             vào cái cây bóng tối

 

nhưng chúng tôi

lại quên lãng

                   rời xa tiếng thở dài

trên cái cây nhân loại

….

sự lãng quên vô tình

                    hoặc cố ý

đang dập tắt tất c

cả sự yên ổn trong tâm hồn và mỗi câu thơ

                                                                         (Thơ đang bị lãng quên)

Nguyễn Việt Chiến coi thi ca luôn gắn với cõi đời hư ảo theo quan niệm nhà Phật , nên khi đi tìm nguồn gốc thi ca, nhà thơ giác ngộ lẽ vô thường của cõi thế:

khi chúng ta đi tìm nguồn gốc của thi ca

con người chợt nhận ra

đời sống này chỉ là

một cơn mơ ngắn ngủi

trong giấc ngủ dài tối tăm

có tên là cái chết                               

(Nguồn gốc của Thi ca)

Và, trong suy tưởng của thi nhân, thi ca có sức mạnh “ợt lên cõi chết”, nó có sức chịu đựng lớn lao: chịu đói rét, chịu cô đơn, để vượt qua hoang mạc:

 

bởi con lạc đà thi ca

đã từng cõng

           một cơn khát trên lung

đi qua bóng đêm

của một cơn khát lớn hơn

để vượt qua hoang mạc

              ( Nguồn gốc thi ca )

Có điều, con lạc đà thi ca đó chẳng biết mình sẽ đi đến đâu! Dường như nhà thơ cưỡi lên con lạc đà thi ca chở nặng những ký ức khổ đau trần thế để vượt qua cõi đời khổ đau và mộng ảo , nhưng lại ngước lên một vầng trăng vĩnh cứu luôn đi theo từng bước chú lạc đà thơ! Nhưng, cho đến khi con lạc đà ấy đã vượt qua sa mạc khổ đau, nó vẫn ở rất xa vầng trăng ấy. Vì vầng trăng ấy là một cảnh giới hoàn toàn khác mà cảm xúc và trí tưởng tượng thi ca của nhà thơ đã đạt tới như một bừng ngộ của thiền sư khi chăm chú nhìn sâu vào nghệ thuật, tình yêu.

 

CÕI TRĂNG - MỘT CẢNH GIỚI CỦA TÌNH YÊU VÀ CÁI ĐẸP

 

Nếu như nước là hình tượng phổ quát trong thơ Nguyễn Việt Chiến, nơi thi nhân ký gửi một thực tại đau khổ, một ký ức ngổn ngang nát vụn, một số phận đắng cay đầy may rủi, âu lo, thì cảm hứng vượt thoát khỏi nước, khỏi những ám ảnh trĩu nặng  lo âu để bay tới cõi trăng cao vợi - nơi tràn ngập ánh sáng của tình yêu và cái đẹp - là cảm hứng mãnh liệt nhất của nhà thơ. 

 

Trăng trong thơ Nguyễn Việt Chiến không đem đến một giọt nước cho kẻ lữ hành trên sa mạc vô thường, nhưng nó có một quyền năng vĩ đại: Nó cho thi nhân cảm giác về sự sống và ý thức về sự sinh tồn. Ánh trăng là hình tượng của nguồn sinh lực tối thượng có khả năng hồi sinh cho nước:

 

Sông Hồng

     vẫn lặng chảy

giống một người đàn bà

khi đêm xuống

(…)

nàng

     lặng lẽ đón nhận

ánh trăng đêm

thấm vào thịt da mình

những giọt thanh xuân

                                                (Sông Hồng của mẹ)

 

Ngược lại với cõi thơ chất đầy ký ức, cõi trăng lúc nào cũng cứ trong veo như tâm hồn trẻ thơ chưa từng vương kỷ niệm. Trăng trong thơ Chiến luôn vượt lên cõi tục, để toả sáng trong miền siêu thoát, lãng quên. Nhưng cũng có lúc nó sà xuống cõi trần để soi rọi miền ký ức lịch sử đầy thi vị:

 

             Đêm nay. Vua Nguyễn ngủ đâu

Mấy cung nữ trẻ. Lên lầu ngắm trăng

            Gặp Hàn Mặc Tử. Thi nhân

Người. Từ Vĩ Dạ. Về thăm. Hoàng thành

                                                   Lấy thơ làm mộng. Du hành

Lấy trăng. Làm chốn nhân tình ghé qua

                                          (Trăm năm mắt Huế)

 

Trăng ở đây vẫn là “chốn nhân tình ghé qua” trong giây lát, là một thứ ký ức tiềm năng, không phải là trăng của cõi tịch nhiên tịch lặng ngập tràn ánh sáng của thiên đường tình yêu vĩnh cửu. Đây  vẫn là vầng trăng của ký ức, của thơ, của cõi đời tục luỵ bể dâu, không phải cõi trăng thi sỹ hằng mơ đến. Cõi trăng dích thực của Nguyễn Việt Chiến luôn gắn liền với hình bóng người yêu:

 

Ta đã chìm rất sâu trong một đêm mưa lớn

không ai đến được với ta

nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia

ta vẫn nhận ra hơi ấm của em

vị mằn mặn của anh trăng

thưa ánh sáng không bị huỷ hoại

              bởi bùn tối của những đáy sâu

và có lẽ ta được cứu thoát bởi chất muối ấy

 

riêng điều bí mật này

em không được biết

ánh trăng không được biết

cả những đáy sâu cũng không được biết

 

khi ta lạc đường trong biển tối cô đơn

chỉ có trăng mới làm ta ấm được

người đàn bà trong suốt

đã đi vào trăng

 

                                         (….)

khi nàng tưới đẫm ta bằng những giọt trăng lành

để cho bụi bặm tối trôi khỏi cuộc đời ta

thì ta lại trốn vào những câu thơ mộng m

 

nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia

ta vẫn nhận thấy hơi ấm của em

vị mằn mặn của ánh trăng

thứ ánh sáng không bị huỷ hoại bởi bùn tối của những đáy sâu

 

Nếu cõi thơ là nơi cất giữ những ký ức trần thế đầy nước mắt, thì cõi trăng là nơi cư trú vĩnh viễn của ánh sáng tình yêu và cái đẹp vĩnh hằng.

 

Sau năm trăm năm nữa

Trăng trên hồ còn soi

           (Hoàn Kiếm hồ)

Cái ánh trăng vĩnh cửu đó cõi thơ không chứa nổi. Nguyễn Việt Chiến lần đầu tiên xác định cái hữu hạn về dung lượng nhân văn và kích thước vĩnh hằng của thơ ca.

Nếu trước đây các thi sỹ nói riêng và người yêu thơ nói chung coi trăng chỉ là vật trang sức vĩnh cửu của thơ, thì nay Nguyễn Việt Chiến đưa vầng trăng lên ngôi vị mới, ngôi vị của một cõi thiêng, thánh đường của tình yêu nơi giao hoà ánh sáng huyền diệu của tình yêu và cái đẹp:

 

trước mùa trăng sinh n

Nguyễn Du là người mộng  du ân ái cũng trăng

nhưng chưa đến nửa đêm thì Truyện Kiều đã viết xong

và Nguyễn Du đạp mây trở về sông Tiền Đường

 

để lại một bông trăng

nở trong chiếc bình đêm

nở thành một nàng Kiều trắng trong

giữa vẩn đục cõi người

                        (Trăng Nguyễn Du)

Không phải gánh nặng ký ức như cõi thơ, cõi trăng trong thơ Chiến là nơi gửi gắm những khát vọng về cái siêu tuyệt, nơi thi nhân giải thoát khỏi cõi đời tục luỵ để lâng lâng phiêu diêu bay lên cõi thiên thai, sống với tình yêu và cái đẹp trong ánh sáng ẩn dụ của một tôn giáo thi ca tinh khiết:

Lần tay. Mở áo đêm ra

Trăng.Nhu nhú sáng. Như. Là trăng non

                                                  …

Trăng ngoài kia. Đã san hô

Mà trăng anh.Vẫn còn mờ mịt trăng

                              (Thời gian của trăng)

Trăng thật ngoài kia vẫn  là thứ san hô tỉnh táo khô cằn trong vũ trụ, còn trăng trong cõi yêu cõi đẹp của thi nhân là vầng trăng mãi mãi mịt mờ hư ảo. Cái mịt mờ hư ảo của trăng ở đây mới sâu, mới đắt làm sao! Nó là niềm kiêu hãnh của những mê man trong giao hoà, những mơ hồ trong ân ái, những hoà trộn tận cùng của cảm xúc vượt lên những tỉnh táo và toán tình đời thường:

 

Vầng trăng trong thơ Chiến đã soi chiếu vào cuộc đời những ánh sáng tình yêu, nó rút tỉa và chưng cất những gì trong ánh tinh khiết nhất của tình yêu và cái đẹp để làm nên cõi trăng nơi thi nhân có thể thanh thản sống với những gì đẹp nhất của cõi thơ trần thế:

 

Ta hỏi quê trăng ở đâu

sao trăng không trả lời

hình như ta và trăng lâu rồi

đều đã mất quê

                           (Quê)

Cái tiêu đề “Trăng và thơ đọc chậm” là một Slogan thi ca hiện đại, nhuốm đậm màu thiền. Giống như các thiền sư “quán bức tường” tập trung nhìn thật lâu vào một điểm trên bức tường để đến một khoảnh khắc đạt tới sự bừng ngộ, thi nhân cũng đọc chậm thơ và đọc chậm vầng trăng để ngộ ra ánh sáng của tình yêu rọi về từ cõi khác:

Và anh đã gặp em

                        trên con đường thật chậm

trăng và những câu thơ đọc chậm

đôi mắt em mở ra

                        một đêm mưa lớn

anh chẳng thể tìm được ánh trăng xưa

thành phố cũ ngủ quên trong lá

                                (Trăng và thơ đọc chậm)

Nhà thơ luôn tìm trăng, luôn mơ trăng, luôn giành cho vầng trăng những liên tưởng về một cõi đẹp miên trường, vĩnh cửu, đầy phép lạ, đầy những hình ảnh thanh tao mà mê dụ của tình yêu. Và nhà thơ nuôi nấng vầng trăng ấy bằng những lời ca buồn, chậm:

Anh đặt cọng lá đêm lên môi

thổi một điệu ca rỗng buồn thật chậm

mong đánh thức

                        mấy que diêm vừa cháy

đêm mai chúng sẽ mọc thành trăng

                           (Trăng và thơ đọc chậm)

 

SỰ GIAO THOA CÕI TRĂNG, CÕI THƠ VÀ CÕI TỤC

 

Dù là những cõi thuộc những cảnh giới khác nhau, nhưng cõi trăng, cõi thơ và cõi đời tục luỵ trong thơ Nguyễn Việt Chiến không tách biệt nhau một cách thô thiển và lộ liễu, mà vẫn phản chiếu nhau, lồng ghép vào nhau trong một hoà điệu trữ tình đa dạng và tinh tế. Vẫn quằn quại day dứt trong cõi đời và lẩn trốn trong cõi thơ, nhưng cõi trăng của Nguyễn Việt Chiến không phải là thứ tháp ngà của thơ mới, cũng không phải là cõi tịch nhiên tịch lặng trong suốt, thảnh thơi như trong thơ Nguyễn Đình Thi, mà vẫn đầy ứ những giằng xé giữa ranh giới của cõi Thiền và cõi tục. Luôn thể hiện một khao khát mỹ học của cái siêu tuyệt, muốn vượt lên chủ nghĩa nhân văn truyền thống, vượt thoát cõi tục để nhập vào cõi đẹp, cõi yêu, vươn tới một thứ ánh sáng của cõi trăng vĩnh cửu “không  bị huỷ hoại bởi bùn tối của những đáy sâu”, nhưng nhà thơ vẫn không muốn dứt bỏ cái cảm thức đau đời thương người  của một dòng thơ gắn với thế gian đầy bụi, đầy nước mắt.

 Bài thơ văn xuôi Sự nổi loạn của tranh thể hiện rõ quan niệm của Nguyễn Việt Chiến về tương quan giữa cõi Đời, cõi trăng và cõi đẹp, theo đó, cõi đẹp, cõi thơ cũng đều mang âm vang của những khổ đau trần thế, thi sỹ cũng phản ứng với những vui buồn yêu thương tục luỵ, nhưng vẫn là những cõi riêng với những chuẩn mực nhân văn và thẩm mỹ khác nhau. Thơ là một cảnh giới gắn với những cảm xúc linh thiêng, day dứt, oai hùng,  yêu thương dữ dội. Còn trăng là một cảnh giới khác gắn với sự siêu thoát nhẹ nhàng, vô hình, vô địa chỉ. Trăng là sự thăng hoa của tình yêu và cái đẹp vượt lên mọi ký ức, nhưng vẫn cho nó một khả  năng phục sinh. Nguyễn Việt Chiến lặn ngụp trong cõi đời ồn ào, nhốn nháo và ô trọc, nhưng anh lại hướng tới lắng nghe những tiếng nói khẽ khàng, rụt rè, ấp úng của tình yêu, từ những hình nhân trong tranh, trong cõi đẹp.

 

Cõi trăng của Nguyễn Việt Chiến là cõi thiên thai dịu lành xa thẳm, nhưng lại cũng là cõi  hiểm nguy khi nó luôn gần kề chiếu rọi vào cuộc sống trần ai để mời gọi những con người đang bơi trong bể khổ. Bài thơ văn xuôi “Nước mắt của trăng” dựng lên cảnh tượng  những con người khổ đau, đói nghèo và nhếch nhác trong cõi tục cố dìu nhau  bay tới cõi trăng:

 

Ánh trăng trên sân ga đọng thành vũng trên cỏ tối mấp mô. Nó chợt thấy một người đàn bà điên ngồi phía bên này sân ga. Chị ta cởi trần mình cho ánh trăng ve vuốt, rồi chị bế nựng vầng trăng đêm trong vòng tay xương xẩu của mình

Chốc chốc người đàn bà điên lại  cất lời ru vầng trăng bằng cái giọng khan khan u ám của mình. Thỉnh thoảng chị ta lại cười rú lên, khạc nhổ vào những thanh ray sắt và cái đầu tàu đen ngòm cứ định câu móc vầng trăng kia vào cái chốt nối toa, đặt lên đường ray rồi sềnh sệch kéo tuột vào bóng đêm cho mất dạng(…)

Nhờ có một vài lát sang m ảo của trăng đêm lọt qua vách tàu, thằng bé mới phát hiện thấy máy người trong toa đều cởi trần giống như người đàn bà điên ngoài sân ga. Thằng bé còn phát hiện thấy trên sàn chiếc toa đen những thân thể cuốn lấy nhau như muốn vắt kiệt ánh trăng thành nước

Bóng tối là một thứ áo quần mà tự do phân phát cho những kẻ không cam chịu tù túng. Vậy mà thằng bé lo cho họ. Nó nghĩ mấy người ấy sắp hoá điên, giống như người đàn bà ở truồng, đang ru nựng vầng trăng ở phía bên kia sân ga.

Nó đập vào thành tàu, để đánh thức con sốt của mấy kẻ đang vật vã âu yếm nhau với những mảng lung , mảng ngực trần nhờn nhẫy mồ hôi trăng…

 

Thằng bé không biết những người trần truồng đó đang vươn tới sống trong cõi trăng của Nguyễn Việt Chiến. Khi thấy đầu tàu khổng lồ đang lũi lúi lao thẳng về toa tàu tình ái đầy ánh trăng ấy, nó đã sợ hãi bằng nỗi lo của cõi tục , nó quyết cứu họ khỏi bị nghiền nát bằng cách  đứng giữa đường tàu  khua tay ngăn đoàn tàu lại:

 

Thằng bé bắt chước người phụ tàu, hàng ngày vẫn dùng cờ hiệu để nối toa và cắt toa trên sân ga. Trong tay chú bé lúc ấy , vật duy nhất có , không phải lá cờ hiệu mà lại là vầng trăng xanh xao

Nó vừa chạy lùi trên những thanh ray, vừa dùng tay phất lên đầu thứ ánh sáng nhợt nhạt kia , mong người lái tàu thấy nó mà dừng lại. Nhưng chiếc đầu tàu hung hãn như con trâu sắt vừa mù vừa điếc vẫn lao thẳng đến. Chú bé vấp ngã và những bánh sắt nhảy chồm lên, đề nát tiếng kêu trẻ thơ dưới vòng quay man rợ…         

 

Bài thơ mô tả một cách ấn tượng và dữ dội khoảnh khắc những con người khổ đau quằn quại trong cõi thế giác ngộ thấy cõi trăng. Một chiều kích vũ trụ của cõi trăng phát lộ bất ngờ trong đời sống trở nên một hành vi điên dại. Cái khoảnh khắc giao thoa giữa cõi tục và cõi trăng mới khốc liệt làm sao. Con người không thể dễ dàng bay lên cõi trăng bằng cách quên đời. Cõi đời khốc liệt vẫn luôn rình rập để níu con người lại trong bẻ khổ. Những nhân vật trong truyện ngắn thơ này giống như Lý Bạch nhảy xuống nước vớt trăng. Nhưng họ không chết một mình như Lý Bạch mà còn làm cho đứa bé ngay thơ lao xuống hồ cứu họ phải lìa đời! Bài thơ rất thản nhiên mà sâu sắc, khắc nghiệt và đau xót!

 

Các bài Nguồn gốc thi ca, Thời gian của trăng, Trăng và thơ đọc chậm cho ta thấy rõ hơn cõi trăng của Chiến đã liên thông với cõi tục ra sao. Hoá ra Cõi trăng kia không phải là cõi mộng mỵ thoát tục, mà lại là kho báu cất giữ những ký ức nhân văn hoá thân từ cõi đời tục luỵ. Ký ức của trăng mang phép lạ giải thoát, mở ra một cánh cửa khác cho nhà thơ thoát khỏi những bế tắc và bệnh tật trong thực tại. Nhưng muốn bước qua cánh cửa giải thoát siêu tuyệt đó, con người cần sống chậm:

 

Người nuốt

những cơn ho thật chậm

vào lúc trăng say

rồi thở ra một trăng tươi

               màu rượu đục

 

Gương mặt ấy  như một quá rượu vắng

nơi người ta

               có thể trở về thật chậm

và đi ra thật chậm

               từ một cánh cửa khác

nhờ ký ức của trăng

                            (Trăng và thơ đọc chậm)

 

Các đoạn  thơ về Trăng trong Thăng Long sử thi, Trăm năm mắt Huế…còn cho ta thấy Cõi trăng trong thơ Nguyễn Việt Chiến rất mong manh và tinh khiết. Đó là cõi sáng tạo sinh nở, cõi hoá thân, thoát tục, vĩnh hằng… Nhà thơ luôn mặc cảm bởi sự dấn thân vào cõi đời tục luỵ, sự lẩn trốn vào cõi thơ mộng mị, xa cách cõi trăng thuần khiết thanh cao.

 

 

BÚT PHÁP HẬU HIỆN ĐẠI BẮT RỄ TỪ TÂM THỨC

Những dấu chấm câu bất thường ngắt vụn câu thơ ra được Nguyễn Việt Chiến sử dụng một táo bạo mà rất tự nhiên, như một thủ pháp mới mẻ và hiệu quả. Cách chấm câu bất chợt, bất chấp ngữ pháp này là một sáng tạo hậu hiện đại thành công, tạo ra những hiệu ứng thi ca nhấm nhẳng, đa chiều. Trước nguy cơ “mê hoá” của dòng sông, nhà thơ không đay nghiến, vỗ ngực kêu trời như thường thấy, mà dung những dấu chấm câu phá cách để thể hiện một cách ấn tượng sự nghẹn ngào, nén lại nỗi đau và đong đếm lại những mảng vụn ký ức của sông xưa:

Ngàn dâu. Xanh. Suốt thoi ngang

Đất.Như lụa dệt. Bóng.Làng quê xưa

Đầu làng.Ngựa đá. Gặm mưa

Cuối làng. Chó đá. Sủa chờ trăng lên

Xứ Đoài. Thăm thẳm. Mắt sen

Mây tơ tầm. Nở trên miền. Đá ong

Cũng là những dấu chấm câu phá cách táo bạo, bẻ vụn câu thơ giống những bài thơ về Hồ Tây, về Huế trong tập thơ này, nhưng nó lại đem đến một hiệu ứng thi ca hoàn toàn khác. Nó gợi lên sự nát vụn của không gian kỷ niệm, sự tần ngần kìm nén của nhà thơ trước bao nhiêu mất mát vô hình. Những dấu chấm đầy hồn vía, đầy năng lượng thi ca  vọt ra từ tâm thế, từ vô thức ấy đã đem đến cho bài thơ lục bát một khí vị nhấm nhẳng hậu hiện đại. Ký ức bị xé vụn, cắt dán, ngàn dâu hiện lên như một bức tranh ấn tượng về trạng thái rách nát của cảnh vật, không còn là cái ngàn dâu mượt mà nguyên vẹn của thơ xưa:

 

Cùng quay lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh mướt một màu

                                               (Chinh phụ ngâm)

Cách bẻ gãy câu thơ đó vừa tạo sự vụn nát của thực tại, vừa tạo ấn tượng về  sự nấc nghẹn của tâm tư lại vừa  tạo nên cuộc ú tim của hình tượng thi ca khi chiếu rọi hình ảnh bằng những tia chớp vô thức mong manh vụt loé. Những dấu chấm câu phá cách của Chiến đã đem lại cho câu thơ lục bát một hiệu ứng rất mới mẻ từ kiểu văn hoá chớp loè, văn hoá đóm đóm của thị trường quảng cáo trên TV mà những hình ảnh ngắn ấn tượng bắn thẳng vào tâm thức người xem đã tạo nên ám ảnh về hàng hoá trong tiềm thức. Hơn thế nữa, nó tạo ra một cảnh giới của thiền sư khi đăm đăm nhìn vào bức tường nham nhở của thực tại, để bóc tách tất cả những lớp vỏ ô trọc và tục luỵ đang che khuất “bản lai diện mục” của không gian văn hoá ngàn đời, phục hiện nó, làm cho nó hiện lên đậm nét, lung linh trong những tia chớp ngắn ngủi nhưng ám ảnh. Toát lên từ tất cả, ta cảm nhận được tâm trạng của một thi nhân luôn mong muốn “gắn hàn chút giá trị mong manh” vẫn ám ảnh trong nứt vỡ, tản mát và vụt loé..

Cũng vẫn là những dấu chấm câu đột ngột như ở những câu thơ về sông mê, về nỗi tiếc sâm cầm Hồ Tây…nhưng khi đặt vào cảnh giới của cõi trăng, nó không làm cho câu thơ nấc nghẹn nữa, mà như có phép lạ làm hiện lên những lời yêu thương run rẩy, hổn hển - ngôn ngữ của cõi trăng  pha trộn giữa thịt da, ánh sáng và tiết điệu chung của tình ái với thi ca.

Lần tay.Mở áo đêm ra

Trăng.Nhu nhú sáng. Như. Là trăng non

Đặt môi lên. Đỉnh trăng tròn

Để hư vô . Biết ta còn. Chiêm bao

                     (Thời gian của trăng)

 

Nếu việc viết về cái viết là dấu hiệu của bút pháp hậu hiện đại mới mẻ, thì Nguyễn Việt Chiến là một thi sỹ hậu hiện đại đưới dạng giả cổ điển. Cách viết về cái viết của Chiến bật lên từ tâm thức hậu hiện đại một cách tự nhiên, hữu cơ, có bản chất thẩm mỹ chứ không phải là thứ sản phẩm cắt dán, liên văn bản cơ học, thực chất là quảng cáo lén về tác giả, làm giả cõi hỗn độn để tạo dáng bề ngoài che dấu đại tự sự xưa cũ, chỉ đánh lừa được những nhà nghiên cứu phê bình hồ đồ dễ dãi.

Diễn ngôn mang tính chất tự thú trong thơ Nguyễn Việt Chiến xuất phát từ nỗi lo âu của người viết khi phải viết trong môi trường của nước, nơi nước mưa  mang tập tính văn hoá của cả một thời trở nên có quyền lực thống trị  người viết, sự viết, tạo nên những hình tượng mòn sáo và dễ dãi. Xuyên suốt thơ Nguyễn Việt Chiến là ám ảnh về đáy sâu, về sự chết chìm của cái đẹp, của sự sống, của thi ca dưới đáy nước hồ, nước sống, nước biển. Sự chết chìm đó không chỉ là sự hư mất tàn phai của ký ức văn hoá trong những không gian thực, mà sâu xa hơn, còn là sự chết chìm của trí tưởng tượng thi ca trong những khuôn mẫu chật hẹp mà ớc đã tạo nên trong lịch sử văn hoá, thi ca:

 

Mưa

là một cái cây

trong lành và tươi tốt

đang đòi mọc r

trong cái đầu cũ kỹ của anh

 

Thức ăn của anh

bao năm chẳng có gì

ngoài mưa

và một nắm ngôn từ sống sít (…)

 

Ch

là một cái cây

            trong lành và tươi tốt

đang đòi nở hoa

trong cái đầu mệt mỏi của anh

 (Mưa và chữ)

 

Thi sỹ sống bằng nước, cộng sinh với nước để sáng tạo thơ, rồi lại phải dần dần tách từng chữ, từng câu thơ ra khỏi bầu nước ối  ngàn năm ấy để tạo thành tuyệt tác. Đó là cái hành trình sáng tạo của thi sỹ, được tổng kết cùng lúc với nỗi niềm về thân phận  thi nhân. Nước mưa, nước sông ám ảnh của Chiến như một nhà tù giam cầm chữ nghĩa, giam cầm trí tưởng tượng. Nhưng nhà thơ vẫn không lẩn tránh, mà đối mặt với nó để qua nó bộc lộ cái đau của một trí tưởng tượng sáng tạo bị cầm tù. Như vậy, Nguyễn Việt Chiến không chỉ viết về cái viết, mà còn cùng lúc viết về sự cầm tù của người viết trong cái thế giới của những cảm xúc  và liên tưởng khuôn mẫu, cũ mòn để qua đó  viết về khát vọng vỡ ối của bào thai ngôn từ, khát vọng vượt thoát khỏi cái nhà giam êm đềm muôn thuở của thi ca. /.

 

 

 

 

 

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *